
"Nhìn chung, công tác đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh những năm qua đã hình thành các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội góp phần cho việc phát triển...
|
| Từ nguồn vốn kích cầu của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng. |
kinh tế - xã hội (KT-XH) của tỉnh. Tuy nhiên, lĩnh vực này của tỉnh còn hạn chế ở tỷ lệ giải ngân thấp so với mặt bằng chung của cả nước” - ông Trần An Khánh, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh cho biết về kết quả giám sát chuyên đề: “Tình hình thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh” của Thường trực HĐND tỉnh. Chuyên đề này chủ yếu giám sát trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện nghiệp vụ XDCB.
Về hạn chế trên, theo ông Trần An Khánh, ngoài những nguyên nhân khách quan như: chế độ, chính sách thay đổi; suy thoái kinh tế; giá cả vật liệu biến động liên tục còn có những nguyên nhân chủ quan. Đó là việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về XDCB trên địa bàn tỉnh còn lúng túng, triển khai các quy định của Trung ương trên địa bàn tỉnh chậm. Khi Chính phủ ban hành Nghị định 112 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, gần 1 năm sau, UBND tỉnh mới ra Quyết định 37 ban hành quy định thực hiện một số thủ tục và phân cấp ủy quyền quản lý đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn. Chính phủ đã có văn bản mới (Nghị định 12 ngày 12-2-2009) thay thế cả 2 nghị định trên nhưng đến nay, UBND tỉnh vẫn chưa sửa đổi, bổ sung Quyết định 36. Chỉ thị số 12 ngày 12-5-2009 của UBND tỉnh về tăng cường công tác quản lý và quy trình, thủ tục thực hiện các dự án, gói thầu áp dụng hình thức chỉ định thầu trên địa bàn tỉnh ban hành nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân, kích cầu đầu tư nguồn vốn XDCB nhưng vì thủ tục chỉ định thầu quy định trong chỉ thị này không nhanh hơn thủ tục đấu thầu nên không góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân trên thực tế. Qua giám sát, ngoài quy định của Trung ương, tỉnh còn có quy định khác. Ví dụ, về thanh toán khối lượng phát sinh, nghị định của Chính phủ quy định giao cho chủ đầu tư tự xử lý nếu nằm trong tổng dự toán, thế nhưng tỉnh lại quy định khi có khối lượng phát sinh, chủ đầu tư phải báo cáo với cơ quan chủ quản đầu tư, phát sinh thêm thủ tục. Đó là việc chưa có mô hình tổ chức ổn định cho các ban quản lý dự án.
Về kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh, theo Thường trực HĐND tỉnh, nhìn chung, các sở, ngành, địa phương đã chấp hành tốt hơn các quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch đầu tư XDCB; vấn đề quản lý các dự án đầu tư; việc ban hành và tiếp tục thực hiện các chính sách ưu tiên bố trí vốn đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, các chương trình mục tiêu… Nhờ đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm mới, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao trình độ văn hóa, dân trí. Việc thực hiện phân cấp đầu tư, về cơ bản đã tạo sự năng động hơn cho chính quyền các cấp trong quá trình chỉ đạo điều hành phát triển KT-XH ở địa phương. Nguồn vốn Nhà nước dành cho đầu tư XDCB đã đóng góp vai trò rất quan trọng và có tính chỉ đạo trong việc phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH của tỉnh. Một số công trình quy mô lớn, các cơ sở dịch vụ công ích, khu kinh tế, khu đô thị mới đã được hình thành. Trong 2 năm 2007 - 2008, tổng vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước là 2.364 tỷ đồng, chiếm khoảng trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó ngân sách Nhà nước do tỉnh quản lý là 1.682 tỷ đồng, phân cấp cho cấp huyện là 682 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân đạt trên 80%.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới tốc độ và chất lượng phát triển KT-XH. Tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn Nhà nước còn chậm, thủ tục đầu tư xây dựng chưa được cải thiện. Tình trạng bố trí vốn dàn trải, đầu tư thiếu đồng bộ vẫn còn khá phổ biến. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư; chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt dự án tại một số sở, ngành, địa phương chưa tốt. Công tác khảo sát, thiết kế, lập dự toán của nhiều đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu, các dự án phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện có xu hướng tăng lên. Vẫn còn nhiều vi phạm pháp luật về đầu tư XDCB, bảo vệ môi trường, an toàn lao động, an toàn giao thông… gây bức xúc trong nhân dân. Việc xã hội hóa các lĩnh vực cần khuyến khích như: xây dựng bệnh viện, trường học…, dành vốn ngân sách tập trung cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa thực hiện được.
Trên cơ sở kết quả giám sát, Thường trực HĐND tỉnh đã kiến nghị UBND tỉnh rà soát và nhanh chóng sửa đổi các quy định không còn phù hợp để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định 12 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; đồng thời, sớm ban hành những chính sách cụ thể như: tái định cư, hỗ trợ các nhà đầu tư để thực hiện đền bù, giải tỏa, chính sách giao đất; phân cấp triệt để cho cấp huyện phê duyệt phương án chi tiết trong đền bù, giải tỏa, tái định cư; xem xét sửa đổi Chỉ thị 12 để tận dụng hiệu quả nguồn vốn kích cầu của Chính phủ. Về phân cấp đầu tư, tỉnh cần khảo sát chuyên đề về phân cấp nhiệm vụ chi nhằm đánh giá lại quá trình phân cấp một cách có hệ thống, phục vụ cho giai đoạn phân cấp tiếp theo; đánh giá lại việc chi thường xuyên, về khả năng đáp ứng của ngân sách trên cơ sở đó cơ cấu nguồn vốn hợp lý hơn. Ngoài ra, tỉnh cần cơ cấu lại mô hình tổ chức và nghiên cứu các cơ chế chính sách áp dụng đối với các ban quản lý dự án cho phù hợp với tình hình thực tế. Về cải cách thủ tục đầu tư XDCB, tỉnh cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục phê duyệt quyết định đầu tư, quy định cụ thể về thời gian, cách thức luân chuyển văn bản… giữa các đơn vị cho phù hợp. Thường trực HĐND tỉnh cũng kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo ngay các cơ quan chuyên môn xem xét, đánh giá xếp hạng doanh nghiệp hoạt động tư vấn; quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc chậm tiến độ đầu tư XDCB; quan tâm hơn nữa đến việc bàn giao công trình sau đầu tư gắn với việc phân bổ ngân sách hợp lý để thực hiện công tác duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng công tình; đầu tư đúng mức hơn cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực, lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra.
K.N



