07:07, 28/07/2009

Người dân khó tiếp cận nguồn vốn?

Đến ngày 23-7, dư nợ cho vay HTLS của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đạt 4.745,5 tỷ đồng, chiếm 32,39% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống...

Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ của tỉnh và Chính phủ, nhiều nông dân có thể trang bị máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ảnh: T.H

Sau hơn 4 tháng triển khai hỗ trợ lãi suất (HTLS) theo gói kích cầu của Chính phủ, đến ngày 23-7, dư nợ cho vay HTLS của các ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đạt 4.745,5 tỷ đồng, chiếm 32,39% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống. Tuy nhiên hiện nay, kết quả dư nợ cho vay theo Quyết định (QĐ) 497/QĐ-TTg đạt rất thấp.

Do ảnh hưởng suy giảm kinh tế thế giới, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và người dân trong nước gặp nhiều khó khăn. Để duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có ban hành cơ chế HTLS các khoản vay bằng VNĐ. Cụ thể, HTLS các khoản vay vốn ngắn hạn (QĐ 131); HTLS các khoản vay trung, dài hạn (QĐ 443); HTLS các khoản vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội (QĐ 579); HTLS các khoản vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp (SXNN) và vật liệu xây nhà ở khu vực nông thôn (QĐ 497). Theo báo cáo của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước (CN NHNN) tỉnh, sau hơn 4 tháng triển khai, đến ngày 23-7, dư nợ cho vay HTLS của những NHTM trên địa bàn theo các QĐ trên của Thủ tướng Chính phủ đạt 4.745,5 tỷ đồng, chiếm 32,39% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống. Trong đó, dư nợ cho vay theo QĐ 131 đạt 4.318 tỷ đồng với 12.099 khách hàng vay, dư nợ cho vay theo QĐ 443 đạt 343 tỷ đồng với 2.550 khách hàng, dư nợ cho vay theo QĐ 579 đạt 83 tỷ đồng với 7.457 khách hàng, riêng dư nợ cho vay theo QĐ 497 chỉ đạt hơn 1,5 tỷ đồng (19 khách hàng vay).

Ông Đoàn Vĩnh Tường, Giám đốc CN NHNN tỉnh cho biết: “Tính đến ngày 31-7-2009, dư nợ cho vay toàn hệ thống ước đạt 14.740 tỷ đồng, tăng 343 tỷ đồng so với đầu tháng, tăng 2.952 tỷ đồng so với đầu năm và tăng 3.472 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2008. Điều này khẳng định chính sách HTLS đã phát huy hiệu quả và góp phần thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế địa phương trong những tháng cuối năm 2009”. Cũng theo ông Tường, ngoài việc góp phần tăng trưởng tín dụng trên địa bàn, cơ chế HTLS đã tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, hộ sản xuất, tạo điều kiện giúp DN, hộ vay vốn khắc phục khó khăn, giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất và việc làm cho người lao động…

Tuy nhiên, quá trình triển khai cơ chế HTLS cho thấy hiệu quả của riêng từng QĐ chưa đều, nhất là gói hỗ trợ vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ SXNN và vật liệu xây nhà ở khu vực nông thôn theo QĐ 497. Hiện chỉ có 19 khách hàng vay với dư nợ hơn 1,5 tỷ đồng. Phải chăng do người dân khó tiếp cận nguồn vốn HTLS?

Tìm hiểu vấn đề này ở 2 xã Vạn Bình, Vạn Phú (huyện Vạn Ninh), chúng tôi được biết, đa số người dân ở đây đều nắm bắt được chủ trương HTLS của Chính phủ nhưng nhu cầu mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp rất ít. Ông Võ Trần Thi, thôn Bình Trung 1, xã Vạn Bình (Vạn Ninh) cho biết: “Người dân trong xã đều nắm được chủ trương HTLS của Chính phủ nhưng đa số bà con đều đã mua máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp theo chương trình HTLS của tỉnh nên hiện nay, nhu cầu này rất ít. Chúng tôi thích vay theo chương trình của tỉnh hơn vì không quy định phải là hàng sản xuất trong nước, thời gian cho vay

 hưởng ưu đãi lãi suất tới 3 năm, trong khi chương trình HTLS của Chính phủ chỉ có 2 năm”. Ông Hồ Văn Luôn, Chủ tịch UBND xã Vạn Phú (Vạn Ninh) cũng khẳng định, hiện nay, nhu cầu mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp của nông dân trong xã rất ít vì đa số đều đã mua máy phục vụ SXNN theo QĐ 49 của UBND tỉnh. Được biết, QĐ 49/2006/QĐ-UBND của UBND tỉnh hỗ trợ 100% lãi suất vay từ nguồn ngân sách địa phương để mua sắm máy móc thiết bị nông nghiệp đã triển khai thực hiện từ năm 2006. Đến nay, dư nợ cho vay theo QĐ này tại hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Khánh Hòa đã đạt gần 16 tỷ đồng. Ông Võ Đức Chưởng, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng NN-PTNT Khánh Hòa khẳng định: “Kết quả cho vay HTLS theo QĐ 497 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn thời gian qua thấp không phải do người dân khó tiếp cận nguồn vốn HTLS mà thực tế, đa số hộ gia đình, cá nhân đã chọn vay theo QĐ 49 của UBND tỉnh vì có nhiều ưu đãi hơn QĐ 497. Ngoài ra, khách hàng ở khu vực nông thôn, thuộc đối tượng vay vốn theo QĐ 497 (bắt đầu từ ngày 1-5-2009), đều đã được tiếp cận vốn vay ngắn hạn theo QĐ 131 (bắt đầu từ ngày 1-2-2009) và vốn vay trung hạn theo QĐ 443 (bắt đầu từ ngày 1-4-2009)”. Bên cạnh đó, việc quy định danh mục hàng hóa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải phải là hàng hoá sản xuất trong nước theo QĐ 497 cũng làm hạn chế nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy định mức vay tối đa 7 triệu đồng/ha đối với vật tư nông nghiệp là tương đối thấp, khiến hộ nông dân thường sử dụng vốn tự có hơn là đi vay. Mặt khác, tâm lý nông dân không muốn vay tiền làm nhà ở (vì không xác định được nguồn thu nhập để trả nợ sau khi vay) mà chỉ muốn sử dụng nguồn tích lũy để thực hiện khi có nhu cầu. Những hộ nghèo và chính sách, nếu có nhu cầu làm nhà ở, cũng đã được HTLS tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo QĐ 579… Do vậy, qua 2 tháng triển khai thực hiện QĐ 497, trên địa bàn tỉnh phát sinh dư nợ cho vay không cao.

Tuy nhiên, hiện bắt đầu xuất hiện xu hướng người dân nông thôn đăng ký vay vốn để xây dựng, sửa chữa nhà, mua sắm máy móc… tràn lan, không cân đối với diện tích đất nông nghiệp tại địa phương và khả năng trả nợ. Điều này dễ gây ra tình trạng nợ khó thu hồi. Vì vậy, các NHTM cần thẩm định chặt chẽ trước khi cho vay. Các cấp chính quyền địa phương cũng cần điều tra quy hoạch, đảm bảo cân đối cung - cầu để có phân bổ hợp lý. Điều này không chỉ giúp ngân hàng cho vay HTLS có hiệu quả, đảm bảo khả năng thu hồi vốn mà còn tránh tình trạng mua sắm máy móc, thiết bị tràn lan, không tạo ra hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.

THU HIỀN