10:05, 05/05/2009

Nhiều vấn đề cần giải quyết

Thời gian gần đây, công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh đã có tín hiệu khả quan. Chất lượng MT nước, không khí và tiếng ồn được cải thiện.

Thành viên Ban Pháp chế HĐND tỉnh kiểm tra một cơ sở sản xuất ở huyện Cam Lâm.

Thời gian gần đây, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trên địa bàn tỉnh đã có tín hiệu khả quan. Chất lượng MT nước, không khí và tiếng ồn được cải thiện. Tuy vậy, việc triển khai Quyết định 47/2006/QĐ-UBND ngày 13-6-2006 của UBND tỉnh về Kế hoạch thực hiện BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) từ năm 2006 - 2010 còn nhiều hạn chế…

° Quản lý nhà nước về môi trường - quan tâm nhưng chưa chuyển biến

Từ năm 2008 đến nay, công tác BVMT đã được các cấp, các ngành, địa phương và nhân dân quan tâm; ý thức trách nhiệm về BVMT ngày càng được nâng cao. Ngày 13-6-2006, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 47/2006/UBND về Kế hoạch thực hiện BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH từ năm 2006 đến 2010 với 5 mục tiêu tổng quát và 9 mục tiêu cụ thể. UBND tỉnh đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn tham mưu xây dựng các đề án như: Di dời những cơ sở gây ô nhiễm MT ra khỏi khu dân cư; quy hoạch quản lý chất thải rắn (CTR) và quy hoạch công trình quản lý CTR; quy hoạch khu giết mổ gia súc, gia cầm (GMGS-GC) tập trung… Công tác lập, thẩm định báo cáo tác động MT và thẩm định các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh đã đi vào hoạt động. Hàng năm, tỉnh có báo cáo tóm tắt thông tin MT nhằm đánh giá toàn diện hiện trạng MT của tỉnh; báo cáo tình hình kiểm tra xử lý ô nhiễm MT tại các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm cao; tăng cường xây dựng mạng lưới quan trắc MT.

Tuy công tác quản lý MT đã được coi trọng, nhưng hoạt động BVMT vẫn chưa mang lại hiệu quả cao. Việc thực hiện Quyết định 47 của UBND tỉnh về BVMT còn rất hạn chế; nhiều nội dung chưa được triển khai. Hiện tỉnh vẫn chưa phê duyệt Quy hoạch quản lý CTR và Quy hoạch xây dựng các công trình xử lý CTR. Các khu chôn lấp chất thải, các cơ sở xử lý, chế biến rác đối với đô thị thuộc Cam Ranh, Vạn Ninh, Ninh Hòa chưa thực hiện. CTR nguy hại có chứa các đặc tính phóng xạ, dễ cháy nổ, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc chưa được tập trung thu gom và xử lý theo quy định. Chất thải y tế tại các cơ sở điều trị đang trong tình trạng quá tải. Toàn tỉnh chỉ có Bệnh viện Chuyên khoa Da liễu có lò đốt xử lý rác thải rắn y tế. Hệ thống xử lý nước thải tại các cơ sở y tế không đủ công suất hoặc đã cũ. Các phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế không có hệ thống xử lý nước thải. Tình hình ô nhiễm MT do hoạt động GMGS-GC diễn ra nghiêm trọng. 208 cơ sở GMGS-GC nằm rải rác trong các khu dân cư. Quá trình giết mổ đã gây ô nhiễm MT về không khí, nguồn nước, rác thải. Đó là chưa kể việc giết mổ thực hiện ngay tại nơi buôn bán, trong khuôn viên gia đình hoặc khu chăn nuôi.

Theo kết quả giám sát của Ban Pháp chế HĐND tỉnh, việc thực hiện quy định về kinh phí sự nghiệp MT (1% chi ngân sách địa phương) chưa thực hiện tốt. Cụ thể, năm 2008, ngân sách dành cho sự nghiệp MT chưa đủ tỷ lệ quy định, vậy mà có địa phương, đơn vị không sử dụng hết nguồn kinh phí được giao.

Về công tác thanh, kiểm tra: Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thành lập trước khi Luật BVMT có hiệu lực nhưng chưa có báo cáo đánh giá tác động MT hiện vẫn chưa kiểm soát được; công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở có nguy cơ ô nhiễm trên địa bàn hầu như buông lỏng. Có nơi kiểm tra, phát hiện sai phạm nhưng không xử phạt. Cán bộ làm công tác BVMT ở các địa phương hầu hết là thiếu, chưa có kinh nghiệm.

° Nguyên nhân và biện pháp khắc phục

Theo Ban Pháp chế HĐND tỉnh, về khách quan, sở dĩ công tác BVMT còn nhiều tồn tại, do việc triển khai các dự án MT gặp khó khăn về đất đai, cơ chế tài chính, cơ chế khuyến khích đầu tư từ các nguồn vốn ngoài ngân sách. Công tác quy hoạch tiến hành chậm, nên các dự án, đề án phải chờ quy hoạch được duyệt mới có cơ sở triển khai. Cơ sở hạ tầng chậm được xây dựng, ảnh hưởng đến kế hoạch triển khai các dự án cũng như việc thực hiện các mục tiêu về BVMT. Công nghệ về xử lý chất thải chưa được phổ cập rộng rãi đến những đối tượng là cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình. Thói quen, ý thức về BVMT của cộng đồng dân cư còn thấp. Vồn đầu tư từ ngân sách cho hoạt động BVMT có hạn, trong khi đó các công trình xử lý chất thải cần vốn đầu tư khá lớn. Về chủ quan, nhiều mục tiêu, nội dung của kế hoạch mà UBND tỉnh ban hành không được các cấp đưa vào kế hoạch thực hiện hàng năm (không bố trí vốn, nguồn nhân lực thực hiện…); công tác tuyên truyền không được chú ý. Hệ thống tổ chức quản lý về MT mới được tăng cường bước đầu, nên còn bất cập về nhân lực và trang thiết bị. Chẳng hạn, ở thị xã Cam Ranh có 1 cán bộ nhưng đảm nhận 3 lĩnh vực: môi trường, khoáng sản, kế toán. Các thiết bị đo nhanh một số chỉ tiêu MT ở hầu hết các Phòng Tài nguyên và Môi trường trong tỉnh đều không có…

Để thực hiện tốt công tác BVMT, UBND tỉnh cần thường xuyên kiểm tra việc thực hiện Quyết định 47; chỉ đạo các sở, ngành sớm hoàn thành đề án về BVMT, quy hoạch tổng thể khu GMGS-GC tập trung, quy hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư. Các cơ quan chức năng và từng địa phương cần chấp hành tốt nhiệm vụ về BVMT; tổ chức thanh, kiểm tra thường xuyên, đột xuất về MT; tiếp tục củng cố, tăng cường nhân lực cho công tác BVMT.

Nếu những vấn đề trên được giải quyết thì hy vọng sẽ có sự chuyển biến về công tác BVMT trên địa bàn tỉnh.

Ngọc Huyền