10:05, 05/05/2009

Có còn phù hợp?

Khoản thu môn bài hiện nay thực chất mang tính lệ phí được gọi là thuế. Số thu hàng năm không đáng kể nhưng lại phát sinh chi phí lớn...

Khoản thu môn bài hiện nay thực chất mang tính lệ phí được gọi là thuế. Số thu hàng năm không đáng kể nhưng lại phát sinh chi phí lớn trong khâu quản lý, dễ gây tâm lý thuế khóa nặng nề.

Chính sách thuế môn bài được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành từ năm 1966 theo Điều lệ thuế công thương nghiệp. Theo đó, người nộp thuế sẽ được cấp “thẻ bài” treo trước cửa hàng để phục vụ mục tiêu kiểm tra, kiểm soát trong thời kỳ bao cấp trước đây. Kể từ đó đến nay, thuế môn bài vẫn tồn tại mặc dù đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung chủ yếu bằng các thông tư do Bộ Tài chính ban hành.

Chức năng của thuế môn bài chủ yếu là kiểm kê, kiểm soát. Do đó, việc đưa thuế môn bài vào quản lý các hoạt động kinh doanh công thương nghiệp trong những năm trước đây đã phát huy hiệu quả trong việc thống kê, trợ giúp các nhà quản lý nắm bắt sự phát sinh số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh hàng năm thuộc các ngành nghề, từ đó có kế hoạch thu sát với thực tế từng địa phương trong điều kiện quản lý chủ yếu bằng các biện pháp thủ công, thống kê trực tiếp.

Mức thu thuế môn bài được xem như một khoản lệ phí nộp trước khi ra kinh doanh và quy định nộp mỗi năm một lần vào đầu năm dương lịch. Mức thu có sửa đổi theo chiều hướng tăng, nên trong những năm qua đã đóng một phần đáng kể trong tổng thu ngân sách địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, huyện nghèo. Mặt khác, khi mới ban hành, thuế môn bài chỉ áp dụng thu ở khu vực kinh tế cá thể, sau đó mở rộng đến khu vực hợp tác xã và dần dần có cả các doanh nghiệp thuộc khối Nhà nước. Căn cứ thu thuế được phân thành 2 khu vực. Theo đó, đối với khối doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, mức thu được căn cứ theo vốn, còn với hộ kinh doanh cá thể, mức thuế phải nộp cả năm căn cứ vào thu nhập hàng tháng để xác định.

Nhìn chung, sau hơn 40 năm thực hiện, chính sách thuế môn bài đã giúp cho công tác quản lý, lập kế hoạch thu thêm chặt chẽ, góp phần tăng nguồn thu hàng năm, giúp các địa phương có kinh phí chi tiêu trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển và nguồn thu còn hạn hẹp.

Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập, chính sách thuế môn bài dường như đã quá lỗi thời, bởi chức năng kiểm kê và kiểm soát của công cụ thuế hiện nay đã có nhiều tiêu chí trong cơ chế quản lý mới thay thế, thậm chí còn hiện đại, khoa học và chặt chẽ hơn. Đó là việc cấp mã số thuế đến từng đối tượng nộp thuế; các dữ liệu trên các phần mềm quản lý thuế mới ngày càng đầy đủ; sự phối hợp quản lý giữa các ngành ngày càng đồng bộ và chặt chẽ hơn. Căn cứ để định ra mức thu thuế môn bài cũng không còn phù hợp với xu hướng phát triển mới, thậm chí thiếu thuyết phục vì khối doanh nghiệp, tổ chức kinh tế là khu vực thực hiện hạch toán kế toán, thực hiện chế độ hóa đơn chứng từ thì lại căn cứ theo mức vốn, còn khu vực hộ kinh doanh có tính chất khoán thuế, không thực hiện mua bán có hóa đơn chứng từ, không hạch toán được kết quả kinh doanh lại thu môn bài dựa vào thu nhập. Cách căn cứ trên đang ngày càng bộc lộ những khiếm khuyết, không có tính khả thi, thiếu tính thuyết phục và dễ phát sinh tiêu cực. Hơn nữa, khoản thu môn bài hiện nay thực chất mang tính lệ phí được gọi là thuế, số thu hàng năm không đáng kể lại phát sinh chi phí lớn trong khâu quản lý, dễ gây tâm lý thuế khóa nặng nề.

Vì vậy, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, đã đến lúc cần phải bãi bỏ thuế môn bài, vừa đảm bảo tính minh bạch của hệ thống chính sách thuế, vừa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính, đồng thời giảm thiểu chi phí cho người nộp thuế và cơ quan thuế. 

Nguyễn Đức Ngoãn