
Trước năm 2004, công tác bảo tồn, lưu giữ gen các loài thủy sản còn hạn chế, chủ yếu tập trung cho các loài nước ngọt, trong khi các đối tượng nước lợ, mặn tuy chiếm đến 80%...
|
| Những loài đã được thu thập và lưu giữ nguồn gen. |
Trước năm 2004, công tác bảo tồn, lưu giữ gen các loài thủy sản còn hạn chế, chủ yếu tập trung cho các loài nước ngọt, trong khi các đối tượng nước lợ, mặn tuy chiếm đến 80% thành phần loài và sản phẩm tiêu dùng nhưng chưa được bảo vệ. Việc lưu giữ mới chỉ giới hạn ở mức độ bảo quản nguồn gen thuần, giống gốc để tránh lai tạp, chưa quan tâm đến việc bảo tồn và nâng cao tính trạng quý, tạo ra những dòng có tính trạng di truyền mang tính bản địa.
Những năm gần đây, việc bảo tồn, lưu giữ các loài thủy sản nước lợ, mặn đang ngày càng được quan tâm. Từ năm 2005, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (NTTS) III được Bộ Thủy sản (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và Bộ Khoa học - Công nghệ giao chủ trì nhiệm vụ “Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn”. Đề tài nhằm bảo vệ các loài động vật thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, tạo nguồn nguyên liệu ban đầu phục vụ cho các chương trình sản xuất giống.
Nhiệm vụ “Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn” được thực hiện từ năm 2005, kết quả được đánh giá hàng năm và theo từng giai đoạn. Đây là nhiệm vụ cấp Nhà nước, do Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng, Trưởng phòng Công nghệ sinh học, Trung tâm Quốc gia giống Hải sản miền Trung - Viện Nghiên cứu NTTS III làm chủ nhiệm. Hoạt động nghiên cứu tập trung vào các nội dung: Thu thập và lưu giữ nguồn gen; đánh giá nguồn gen và xây dựng cơ sở dữ liệu. Dựa vào đặc tính loài bảo tồn, nguồn gen thủy sản thường được bảo tồn theo 3 phương thức: Nguyên vị (In-situ), chuyển vị (Ex-situ), trong phòng thí nghiệm (In-vitro). Việc “Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen và giống các loài thủy sản nước lợ, mặn” đang được thực hiện bằng cả 3 hình thức bảo tồn này.
Tính đến năm 2007, Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng và các cộng sự đã thu thập, bảo quản mẫu vật và đánh giá 9 nguồn gen. Đó là 9 đối tượng quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, tiềm năng nuôi thương mại đang rất cần bảo tồn gồm cá măng, cá mú cọp, tôm mũ ni trắng, cá song vua, cá song chanh, cá song dẹt, cá chẽm, cá mó đầu khum và cá chìa vôi. Các mẫu vật được thu từ Phan Rang, Phan Thiết, Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Kiên Giang. Trong số đó, chỉ có tôm mũ ni chưa bảo quản thành công còn các loài khác phát triển ổn định. 3 đối tượng cá song chanh, cá mú cọp và cá chìa vôi đã được đánh giá nguồn gen và tư liệu hóa. Các nguồn gen cá măng, cá chìa vôi, cá song da báo đã lưu giữ thành công, có khả năng sinh trưởng và thành thục tốt trong điều kiện lưu giữ. Trong năm 2008, các nguồn gen được lưu giữ gồm cá mú cọp, cá song da báo, cá song chanh, cá song vua, cá song dẹt, cá mó đầu khum, cá chìa vôi, cá cam.
Bảo tồn nguồn gen trong điều kiện nhân tạo sẽ giúp các loài tái tạo quần đàn, giúp người NTTS kiểm soát đặc điểm di truyền, chủ động nguồn vật liệu phục vụ cho sản xuất. Theo Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng, công tác bảo tồn nguồn gen thực hiện trong năm 2009 tập trung vào việc thu thập, lưu giữ các nguồn gen mới, gồm: cua hoàng đế, tôm hùm bông, trai ngọc môi vàng, bào ngư cửu khổng, bào ngư bầu dục, cá tráp vây vàng, cá mao ếch, cá mặt quỷ, rong câu chân vịt. Việc lưu giữ mẫu vật sẽ được thực hiện chủ yếu bằng hình thức chuyển vị (trong lồng biển và bể xi măng). Trong số đó, các loài cua hoàng đế, tôm hùm kiếm ba góc, trai ngọc môi vàng, bào ngư bầu dục, cá chìa vôi khoang vằn là những loài có nguy cơ tuyệt chủng lớn; rong câu chân vịt, cá mặt quỷ, trai tai tượng lớn được xếp trong nhóm có nguy cơ tuyệt chủng rất lớn; cá mao ếch, cá tráp vây vàng thộc nhóm thiếu dẫn liệu; bào ngư cửu khổng thuộc nhóm rất nguy cấp. Sau khi thu thập mẫu vật, nhóm thực hiện nhiệm vụ sẽ tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện kỹù thuật lưu giữ di truyền trong hệ sinh thái nhân tạo và trong điều kiện phòng thí nghiệm; liên kết với một số khu bảo tồn biển với phương thức chuyển vị; đánh giá nguồn gen và xây dựng cơ sở dữ liệu cho từng loài. Sản phẩm cuối cùng của nhiệm vụ là duy trì sự đa dạng di truyền của quần đàn qua các thế hệ, tạo nguyên vật liệu ban đầu phục vụ chương trình sản xuất giống tái tạo quần đàn. Những kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2009 sẽ là tiền đề phục vụ việc xây dựng định hướng chiến lược phát triển bảo tồn, lưu giữ nguồn gen và các loài thủy sản trong thời gian tới, giai đoạn 2010 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
K.N




