
Thu thập và nhân giống một số loài vi tảo biển có lợi làm thức ăn cho các đối tượng thủy sản, tiến tới xây dựng ngân hàng vi tảo biển là mục tiêu Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương...
|
| Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương đang tiến hành các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. |
Thu thập và nhân giống một số loài vi tảo biển có lợi làm thức ăn cho các đối tượng thủy sản, tiến tới xây dựng ngân hàng vi tảo biển là mục tiêu Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương (Phòng Sinh học thực nghiệm Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (NTTS) III) và các cộng sự hướng tới. Đây cũng là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do chị làm chủ nhiệm.
Đề tài “Thu thập và nhân giống một số loài vi tảo biển” được thực hiện từ năm 2007 - 2009. Trong thời gian thực hiện đề tài, chị Hương và các cộng sự đã tiến hành thu thập và phân lập thuần chủng 15 loài vi tảo biển; nghiên cứu lập hồ sơ cho từng loài; lưu giữ các loài vi tảo biển thu được; nghiên cứu kỹ thuật nuôi sinh khối các loài vi tảo biển thu được; thử nghiệm và làm thức ăn cho một số đối tượng thủy sản. Chị Hương cho biết: Vi tảo biển là loại thức ăn tươi sống có giá trị dinh dưỡng rất cao. Theo các công trình nghiên cứu, hàm lượng dinh dưỡng trong vi tảo biển tính theo khối lượng khô dao động giữa các loài khác nhau ở mức: Protein: 29 - 57%, lipid: 7 - 25%; các chất khoáng khác: 6 - 39%. Hàm lượng a xít béo chưa no PUFA mạch dài cần thiết cho quá trình sinh trưởng giai đoạn ấu trùng và con non của động vật biển trong vi tảo rất cao. Vi tảo còn giàu 2 loại a xít béo không no EPA, DHA cùng nhiều vitamin, a xít a min và các sắc tố khác. Về mặt ứng dụng, vi tảo được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống như: dược phẩm, mỹ phẩm, làm thức ăn cho người và gia súc, làm phân bón hoặc sử dụng trong xử lý ô nhiễm môi trường. Đối với vi tảo được sử dụng làm thức ăn cho NTTS, hầu hết sinh trưởng và phát triển trong môi trường nước mặn và lợ.
Trên thế giới, việc thu thập, phân lập, nuôi các loài tảo biển đã khá lâu. Có nhiều nước đã xây dựng được ngân hàng vi tảo. Hiện nay, thế giới có khoảng 40 loài vi tảo được nuôi phổ biến làm thức ăn trong NTTS. Đây là những loài có giá trị dinh dưỡng cao, kích thước đa dạng phù hợp với các loại ấu trùng động vật biển.
Tại Việt Nam, việc thu thập và phân lập vi tảo mới chỉ được tiến hành vài năm gần đây, với phương pháp phân lập đơn giản. Số lượng loài vi tảo được phân lập làm thức ăn cho NTTS còn ít, chủ yếu là 2 đối tượng skeletonema costatum và chaetoceros phục vụ cho sản xuất giống tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Thời gian gần đây, một vài loài vi tảo biển có kích thước nhỏ như nanochloropsis, isochrysis, platymonas… đã được nhập vào Việt Nam để phục vụ cho sản xuất giống cá biển, nhuyễn thể, da gai… Để nghề NTTS phát triển ổn định và bền vững, Việt Nam cần thu thập, thuần hóa những loài nhập nội; đồng thời tiến hành thu thập, phân lập những loài vi tảo có nguồn gốc bản địa để tạo nguồn thức ăn tươi sống chủ động và đa dạng phục vụ NTTS.
Lưu giữ các loài vi tảo là việc làm công phu, tốn kém và đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao không phải cơ sở nào cũng làm được. Một số nước có ngân hàng tảo cung cấp, giống thuần cho các phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất. Ở Việt Nam chưa có cơ sở nào chính thức cung cấp giống vi tảo thuần. Việc nuôi sinh khối vi tảo ở nước ta gặp khó khăn do nguồn giống chủ yếu được nhập nội, chưa được thuần hóa nên sinh khối tảo không ổn định về số lượng và chất lượng. Vì vậy, việc sử dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng cũng chưa mang lại kết quả như mong muốn. Để giải quyết khó khăn trên, các nhà khoa học phải tập trung vào nghiên cứu tạo ra quy trình nuôi sinh khối ổn định cho từng loài vi tảo.
Đến nay, chị Hương và các đồng nghiệp đã thu thập, phân lập, lưu giữ được 17 loài vi tảo biển thuộc các ngành: tảo khuê, tảo lục, tảo vàng ánh; trong đó có trên 10 loài tảo có “quốc tịch” Trung Quốc, Đan Mạch, Úc, Philippines như: Isochrysis galbana, tetraselmis sueciea, platymonas sp, chlorella, nannochloropsis oculata, nannochrysis atomus; heterogloea sp, chaetoceros calcitsran… và những loài được thu thập ở biển Việt Nam như: Nitzschia closterium; naviculla sp1, naviculla sp2, amphora sp, skeletonema costatum, chaetoceros muelleri. Trong số đó, nhóm thực hiện đề tài đã nghiên cứu điều kiện nuôi thích hợp cho 13 loài, đang tiếp tục nghiên cứu thêm 2 loài như mục tiêu đã đặt ra ban đầu (15 loài). Sau đó, chị Hương và cộng sự sẽ nhân giống và nuôi sinh khối số lượng lớn với mục tiêu cung cấp giống vi tảo biển thuần chủng cho các đơn vị trong và ngoài nước.
Vi tảo biển là mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn tươi sống cho đối tượng NTTS. Kết quả đề tài này sẽ góp phần giải quyết vấn đề thức ăn tươi sống, nguồn thức ăn quan trọng và cần thiết cho sự phát triển của đối tượng NTTS, góp phần vào việc sản xuất giống thủy sản sạch (sử dụng vi tảo ổn định môi trường ao nuôi, hạn chế mầm bệnh để không dùng kháng sinh), chất lượng cao, giá thành hạ. Mặt khác, vi tảo biển còn có thể dùng làm thức ăn cho người và gia súc, làm dược phẩm, mỹ phẩm, phân bón hoặc dùng để xử lý nước bị ô nhiễm…
K.N




