03:07, 19/07/2008

Câu cá ngừ đại dương: Phập phồng lo thua lỗ

Trong quá trình chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang đánh bắt xa bờ, ngư dân Khánh Hòa đã chọn câu cá ngừ đại dương để tạo đột phá. Tuy nhiên, do phát triển ồ ạt, đội tàu...

Nhiều tàu câu cá ngừ đại dương của Khánh Hòa đang phải nằm bờ vì khai thác không hiệu quả.

Trong quá trình chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang đánh bắt xa bờ, ngư dân Khánh Hòa đã chọn câu cá ngừ đại dương (CNĐD) để tạo đột phá. Tuy nhiên, do phát triển ồ ạt, đội tàu khai thác công suất nhỏ, kỹ thuật đánh bắt và sơ chế lạc hậu…, trong khi chi phí đi biển ngày một tăng, giá thu mua thấp nên nghề câu CNĐD gặp nhiều khó khăn. 50% chủ tàu hiện đã chuyển sang nghề khai thác lộng; trong số 104 tàu đang khai thác cũng có tới 60% tàu nằm bờ vì đánh bắt không hiệu quả…

° Chi phí tăng cao

Khánh Hòa hiện có 104 tàu câu CNĐD. Sản lượng khai thác hàng năm đạt từ 1.500 - 2.000 tấn, thấp hơn nhiều so với 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định. Những năm gần đây, do ngư trường khai thác không ổn định, chi phí đi biển quá cao (đặc biệt là giá xăng dầu), nghề câu CNĐD liên tiếp gặp khó khăn. Thông thường, ngư trường khai thác cá ngừ cách bờ khoảng 400 - 600 hải lý, ngư dân phải bám biển từ 20 ngày đến 1 tháng. Vì thế, mỗi chuyến vươn khơi phải hao tổn 4.500 - 5.000 lít dầu (loại tàu công suất từ 90CV trở lên), cộng với tiền mua sắm dụng cụ khai thác như thẻo câu, lưới, lương thực, thực phẩm, chi phí một chuyến đi biển không dưới 90 triệu đồng, tăng gấp rưỡi so với đầu vụ năm trước. Với giá cá ngừ hiện nay (100 ngàn đồng/kg), nếu mỗi chuyến tàu khai thác được 1 tấn cá thì cũng chỉ huề vốn. Chi phí cao, trong khi sản lượng khai thác ngày càng giảm sút khiến ngư dân âu lo và “ngại” ra khơi. Đáng nói là, lợi dụng việc thiếu vốn đi khơi, một số cơ sở đầu cơ bán nợ dầu cho ngư dân với giá “cắt cổ” (cao hơn 1.500 - 2.000 đồng/lít). Cũng do thiếu vốn, lại làm ăn đơn lẻ, ngư dân phải chấp nhận cho tư thương ứng phí tổn ban đầu để đi biển và chịu bị ép bán cá ngừ với giá thấp hơn giá thị trường.

° Kỹ thuật lạc hậu

Theo khuyến cáo của Hội Nghề cá tỉnh, CNĐD thường di chuyển theo đàn với số lượng lớn. Do vậy, khi 5 hoặc 10 tàu liên kết với nhau câu khơi, chỉ cần một tàu dò được luồng cá là có thể lập tức thông báo bộ đàm để các tàu cùng hợp sức, sản lượng cá đạt cao hơn, lại giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, việc bảo quản sản phẩm sau khai thác cũng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và giá CNĐD. Tuy nhiên, do thiếu vốn, ngư dân phải sử dụng hầm ướp cá bằng đá xay vụn trong thời gian dài, khiến chất lượng cá chỉ đạt khoảng 50% tiêu chuẩn xuất khẩu, giá bán cũng giảm tương đương. Trong khi đó, hiện các nước khác đang sử dụng công nghệ sơ chế cá ngừ trên biển bằng máy phun đá vảy nên cá rất tươi, bán được giá. Gần đây, để bù đắp chi phí xăng dầu, lương thực tăng cao, các chủ tàu đã kéo dài thời gian đi biển với hy vọng đánh bắt được nhiều cá hơn. Nhưng điều này cũng khiến cá đánh bắt được không còn tươi, giá trị càng hạ thấp. Chỉ khi đổi mới công nghệ sơ chế hiện đại, giữ được chất lượng sản phẩm, thì ngư dân mới có thể đẩy giá bán cá lên gấp rưỡi, gấp đôi hiện nay.

Khánh Hòa hiện có 7 doanh nghiệp đang thu mua, chế biến CNĐD, kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt trên 100 triệu USD, chiếm 39,7% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn tỉnh. Như vậy, “đầu ra” cho CNĐD không còn căng thẳng, nhưng việc nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm lại chưa được các ngành và ngư dân quan tâm đúng mức. Vụ khai thác năm 2008, có 50% chủ tàu đã chuyển sang nghề khai thác lộng ven bờ; trong số 104 tàu đang khai thác cũng có tới 60% nằm bờ vì đánh bắt không hiệu quả, sản lượng thấp. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Hiệp hội CNĐD, tập hợp những tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ CNĐD; hỗ trợ về kinh tế, kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nâng cao giá trị sản phẩm, góp phần phát triển nghề cá địa phương. Tuy nhiên, làm thế nào xây dựng được một tổ chức dung hòa cả bên sản xuất và mua bán CNĐD để cùng phát triển thì vẫn còn là điều trăn trở. 

Để nghề câu CNĐD phát triển bền vững, ngành Nông nghiệp cần điều tra, đánh giá đúng tiềm năng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh CNĐD, từ đó có giải pháp sắp xếp, quản lý, đầu tư phù hợp và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng đầu tư phát triển. Các chủ tàu cũng cần được liên kết thành các tổ hợp, hợp tác xã để hỗ trợ nhau về kỹ thuật, dò tìm luồng cá, giảm chi phí di chuyển ngư trường và ra vào bờ bán cá, tiếp nhiên liệu… Đồng thời, hỗ trợ ngư dân về kỹ thuật, bảo quản nguyên liệu, tìm hiểu ngư trường và quản lý được cơ sở thu mua, chống tình trạng tư thương ép giá.

CHÂU AN KHÁNH