
Sau những vụ tôm sú thất bát vì dịch bệnh, phân nửa diện tích ao, đìa, đầm phá đã được người nuôi tôm ở Khánh Hòa chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng. So với tôm sú...
|
| Khoảng nửa diện tích ao, đìa ở Khánh Hòa đang được người dân thả nuôi tôm thẻ chân trắng. |
Sau những vụ tôm sú thất bát vì dịch bệnh, phân nửa diện tích ao, đìa, đầm phá đã được người nuôi tôm ở Khánh Hòa chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng. So với tôm sú, tôm thẻ chân trắng có nhiều ưu điểm như: nhanh lớn, phát triển tương đối đồng đều, thời gian nuôi ngắn và chi phí thấp. Tuy nhiên, theo cảnh báo của các nhà khoa học, tôm thẻ chân trắng thường mắc những bệnh của tôm sú, mang hội chứng Taura gây nên dịch lớn và các bệnh khác có thể lây nhiễm sang các đối tượng tôm bản địa, làm mất an ninh sinh thái và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất và môi trường tự nhiên.
Con tôm thẻ chân trắng được người nuôi tôm ở Khánh Hòa đưa vào nuôi thử nghiệm từ năm 2001. Ban đầu, việc thả nuôi chỉ được tiến hành lẻ tẻ ở một số hộ vì Bộ Thủy sản (cũ) và UBND tỉnh cấm việc thả nuôi, sản xuất đối tượng này. Sau một thời gian dài khảo nghiệm, đến năm 2006, Bộ Thủy sản chính thức xóa bỏ lệnh cấm, tôm thẻ chân trắng được nuôi ồ ạt ở các địa phương trong tỉnh. Do dễ nuôi, năng suất cao (gấp 2 lần tôm sú), chi phí thấp, nên nửa diện tích ao, đìa đã được người nuôi tôm chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Đến thời điểm này, toàn tỉnh đã có 870 ha (tôm sú 906 ha) nuôi tôm thẻ chân trắng, và diện tích thả nuôi đang có chiều hướng gia tăng trong các năm tới. Theo người nuôi tôm, việc đưa con tôm thẻ chân trắng vào nuôi đã đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Trung bình, cứ 1 ao nuôi khoảng 2.500 - 3.000m2, nếu không bị dịch bệnh, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu hao máy móc thiết bị, người nuôi lãi từ 25 - 30 triệu đồng. Con tôm thẻ chân trắng có nhiều ưu điểm so với tôm sú, đó là nhanh lớn, phát triển tương đối đồng đều, thời gian nuôi chỉ từ 2,5 - 3 tháng (tôm sú 4 - 5 tháng). Có thể nuôi mật độ dày (trên 100 con/m2) và nuôi trong điều kiện độ mặn thấp (<10‰), thức ăn không cần độ đạm cao. Tuy nhiên, việc nuôi tôm thẻ chân trắng cũng như các đối tượng nuôi khác đòi hỏi phải nắm vững quy trình kỹ thuật nuôi, phải có cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật đảm bảo, con giống sạch bệnh thì mới đạt năng suất cao.
Không thể phủ nhận, thành công bước đầu trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng đã góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận cư dân vùng bãi ngang ven biển, làm giàu cho nhiều hộ nuôi đối tượng này. Tuy nhiên, việc ồ ạt thả nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh đang được các nhà khoa học đánh giá là không có tính bền vững. Bên cạnh việc không có sự quản lý, định hướng phát triển nuôi một cách có quy hoạch, tình trạng dịch bệnh trên đối tượng này đang có chiều hướng gia tăng. Bởi nhược điểm lớn nhất của loại tôm này là bị nhiều loại dịch bệnh khác nhau, nếu không kiểm soát nghiêm ngặt, tỷ lệ lây nhiễm chéo bệnh từ tôm thẻ chân trắng sang tôm sú là rất lớn, lên tới 25%. Bệnh thường gặp nhất ở con tôm này là hội chứng Taura, có thể gây nên dịch lớn và các bệnh khác có thể lây nhiễm sang các đối tượng tôm bản địa, làm mất an ninh sinh thái và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất và môi trường tự nhiên. Chính vì thế, sau gần 7 năm con tôm thẻ chân trắng được nuôi ở Việt Nam, nhưng ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà khoa học thủy sản vẫn còn trái ngược nhau xung quanh chuyện có nên nuôi hay không?
Hiện nay, trong tỉnh có 24 cơ sở sản xuất và cung ứng giống tôm chân trắng, sản lượng đạt 150 triệu post/năm. Tuy nhiên, do lực lượng thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực này còn quá mỏng, nên hầu hết các cơ sở này khi xuất tôm giống ra đều không được kiểm dịch. Ngoài ra, tình trạng nhiều tư thương đưa con giống từ ngoài tỉnh vào không qua kiểm dịch đã và đang gây thiệt hại không nhỏ cho người nuôi tôm. Bên cạnh những khó khăn gặp phải trong quá trình sản xuất, hiện tại người dân nuôi tôm thẻ chân trắng đang phải đối mặt với khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Do ảnh hưởng của giá tôm sú xuất khẩu giảm, giá tôm thẻ chân trắng cũng bị giảm mạnh (từ 55.000 đồng/kg đến nay chỉ còn khoảng 40.000 đồng/kg). Mặt khác, hầu hết việc tiêu thụ sản phẩm đều thông qua tư thương nên xảy ra tình trạng ép cấp, ép giá. Điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của người trực tiếp sản xuất.
Để việc nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển bền vững, ngành Nông nghiệp cần phối hợp với cơ quan chức năng liên quan tăng cường quản lý chặt chẽ chất lượng con giống. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh việc kiểm tra, kiểm dịch tôm bố mẹ và tôm post trước khi xuất bán cho người nuôi để tránh tình trạng mua bán giống không rõ nguồn gốc, không qua kiểm dịch; đồng thời có cơ chế tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia liên kết sản xuất giống tại chỗ, đảm bảo chất lượng để cung cấp cho người nuôi trong tỉnh. Mặt khác cần có quy định cụ thể trong việc xác định vùng nuôi đối tượng này, vì đây là đối tượng nuôi còn trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm. Ngoài việc khoanh vùng nuôi tách biệt với tôm sú và các đối tượng nuôi khác, sớm có các dự án đầu tư hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp chế biến thủy sản thu mua, chế biến đối tượng này, xem đây là mặt hàng mới vừa tham gia xuất khẩu vừa phục vụ cho thị trường nội địa. Có như vậy, người nuôi tôm mới thật sự yên tâm cùng Nhà nước đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm thẻ chân trắng trên đất cát một cách hiệu quả và bền vững.
CHÂU AN KHÁNH




