04:05, 16/05/2006

Chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010

Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, mục tiêu của chiến lược là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng...

Ảnh minh họa.

Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, mục tiêu của chiến lược là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao...

Vừa qua, Bộ Thương mại đã xây dựng Đề án Chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010. Theo ông Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Thương mại, mục tiêu của hoạt động xuất khẩu giai đoạn này là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô.

Xuất khẩu hàng hoá: Giảm dần nhiên liệu, khoáng sản

Theo đề án, Việt Nam sẽ phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu (XK) năm 2006 là 18,5% và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2006 - 2010 đạt mức 17,5%/năm. Quan điểm chủ đạo của giai đoạn này là “coi việc tập trung đầu tư vào nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản là 2 khâu trọng tâm để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam”. Quan điểm này dựa trên 3 nhận định: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô và than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tiếp theo, đặc biệt kể từ năm 2009, khi nhà máy lọc dầu số 1 dự kiến đi vào hoạt động sẽ sử dụng nguồn dầu thô trong nước.

Thứ 2, tốc độ tăng trưởng XK của nhóm hàng nông lâm thuỷ sản sẽ có xu hướng tăng dần nhưng với biên độ thấp do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng quy mô nuôi trồng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị XK.

Thứ 3, tốc độ tăng trưởng XK của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thị trường mới, mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ.

Cơ cấu cụ thể cho từng nhóm hàng XK được xây dựng như sau: Nhóm hàng nông lâm sản sẽ giảm dần tỷ trọng cơ cấu hàng hoá XK  từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010. Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với 2 mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21% năm 2006 xuống còn 9,6 năm 2010. Riêng nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng khá mạnh từ 45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010. Nhóm hàng có khả năng gia tăng khối lượng xuất khẩu gồm: Dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, đồ điện gia dụng, sản phẩm nhựa, cơ khí, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, xe đạp và phụ tùng xe đạp.

Đẩy mạnh quy mô, tốc độ tăng trưởng dịch vụ

Phấn đấu tăng trưởng kim ngạch XK của khu vực dịch vụ (bao gồm cả XK lao động) giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng bình quân 16,3%/năm và kim ngạch đạt 12 tỷ USD vào năm 2010. Trong đó dự kiến một số lĩnh vực có tốc độ tăng cao là bảo hiểm tăng 29,3%/năm, bưu chính viễn thông tăng 24,5%/năm, tài chính tăng 22,4%/năm, vận tải biển tăng 21,5%/năm. Đến năm 2020, XK của các lĩnh vực có kim ngạch cao là du lịch đạt khoảng 3,2 tỷ USD, XK lao động đạt 3 tỷ USD, vận tải biển đạt 1,1 tỷ, vận tải hàng không đạt 950 triệu USD…

Tuy nhiên, trong lĩnh vực dịch vụ, nhìn chung năng lực XK của ta còn nhiều hạn chế. Những lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam được coi là có nhiều điều kiện phát triển như vận tải hàng hải, hàng không, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm vẫn chưa được khai thác hết thế mạnh. Để có thể đẩy mạnh XK được các lĩnh vực này cần một quá trình đầu tư dài hạn. Những lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có thể tập trung khai thác và đẩy mạnh XK trong giai đoạn 2006 - 2010 cơ bản gồm: Du lịch, XK lao động, dịch vụ gia công phần mềm (theo Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, lĩnh vực gia công phần mềm trong 3 năm qua đã có tốc độ tăng trưởng bình quân dạt 30 - 45%. Dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức cao và có thể XK đạt mức 300 - 400 triệu USD vào năm 2010) và các dịch vụ phục vụ hoạt động đầu tư nước ngoài.

Theo Lao động xã hội