
Kỳ 1: Doanh nghiệp lao đao khi thiếu nguyên liệu
Khánh Hòa là tỉnh đứng thứ 4 về kim ngạch xuất khẩu (KNXK) thủy sản của cả nước sau Cà Mau, Sóc Trăng và Cần Thơ...
Kỳ 1: Doanh nghiệp lao đao khi thiếu nguyên liệu
|
| Với đội tàu công suất nhỏ, ngư dân chỉ đủ khả năng khai thác thủy sản ven bờ. |
Khánh Hòa là tỉnh đứng thứ 4 về kim ngạch xuất khẩu (KNXK) thủy sản của cả nước sau Cà Mau, Sóc Trăng và Cần Thơ. Năm 2004, giá trị KNXK thủy sản toàn tỉnh đạt 170 triệu USD, chiếm tỷ trọng trên 60% tổng KNXK địa phương. Năm 2005, mục tiêu phấn đấu đạt 218 triệu USD liệu có hoàn thành khi KNXK 6 tháng đầu năm chỉ đạt trên 88 triệu USD? Do thiếu nguyên liệu chế biến, các doanh nghiệp (DN) tham gia xuất khẩu thủy sản (XKTS) đang hoạt động cầm chừng.
Với 655km bờ biển và đường bờ ven đảo, 2.658km2 đầm, vịnh, đất ngập mặn, Khánh Hòa là tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế thủy sản. Tuy nhiên, do khai thác bừa bãi theo hướng hủy diệt, nuôi trồng không theo quy hoạch, tổng sản lượng thủy sản đang có xu hướng chững bước trong những năm gần đây. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các DN tham gia XKTS khi nguồn nguyên liệu không đáp ứng đủ nhu cầu. Toàn tỉnh có 40 xưởng chế biến thủy sản (CBTS) tham gia xuất khẩu. Trong đó có 22 nhà máy chế biến đông lạnh, 3 phân xưởng chế biến đồ hộp, 15 cơ sở CBTS khô. Hiện 16 phân xưởng được cấp Code xuất khẩu sang thị trường EU, 26 nhà máy, phân xưởng được chứng nhận đạt tiêu chuẩn Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường, bên cạnh đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất, chất lượng, số lượng xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, các DN đã sản xuất rất nhiều sản phẩm với nhiều mẫu mã khác nhau, đủ sức cạnh tranh tại các thị trường quốc tế. Tuy nhiên, việc có đủ nguồn nguyên liệu để chế hàng xuất khẩu đang là vấn đề bức xúc đối với DN hiện nay. Hầu hết các DN đều tự tổ chức mạng lưới thu mua nguyên liệu khắp nơi trong cả nước, thậm chí cả nước ngoài vì nguồn nguyên liệu trong tỉnh không đáng kể. Mặc dù vậy, năng lực chế biến bình quân của các DN chỉ đạt gần 40% kế hoạch. Đây chính là nguyên nhân khiến KNXK thủy sản giảm đáng kể.
Hiện nay, không riêng gì Khánh Hòa, hầu hết các địa phương trong tỉnh đều gặp khó khăn trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu tôm sú vì diện tích, năng suất giảm. Do môi trường ô nhiễm và do thời tiết khắc nghiệt nên diện tích ao, đìa, đầm phá thả nuôi toàn tỉnh chỉ đạt 50%. 6 tháng đầu năm, sản lượng tôm sú toàn tỉnh chỉ đạt 365 tấn, bằng 6% kế hoạch, thấp nhất từ trước tới nay. Hiện nay, cá, tôm, mực, ghẹ… vẫn là mặt hàng chủ lực trong KNXK thủy sản địa phương. Hàng năm, mặt hàng cá xuất khẩu chiếm 13.000 tấn/24.000 tấn, chiếm 54%; tôm 4.500 tấn, chiếm 18%; mực 3.500, chiếm 15%... Hầu hết nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu là khai thác biển. Việc khai thác phụ thuộc vào thiên nhiên, khí hậu thời tiết và môi trường nên mang tính mùa vụ và không ổn định. Điều đáng nói là năng lực đánh bắt, khai thác của các DN, cá nhân chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Toàn tỉnh hiện có 5.060 chiếc tàu, thuyền với tổng công suất 132.500 CV, trọng tải 8.200 tấn. Với trang thiết bị lạc hậu, công suất thấp, khả năng khai thác của tàu thuyền tập trung chủ yếu ở khu vực ven bờ. Trong lúc đó, nguồn lợi ven bờ ngày càng cạn kiệt, sản lượng đánh bắt đạt thấp. Ngoài ra, sau khi trừ chi phí phục vụ đánh bắt, lợi nhuận thu được không cao, vì thế việc đầu tư tái sản xuất của ngư dân gặp rất nhiều khó khăn. Đó là chưa nói đến việc đánh bắt xa bờ không đạt hiệu quả do đầu tư không đúng đối tượng.
KNXK đạt thấp, vấn đề này không thể đổ lỗi cho DN hay người cung cấp nguyên liệu. Điều cốt lõi ở đây là tìm ra được giải pháp, hướng đi mới trong việc tạo mối liên hệ chặt chẽ, cân đối trên cơ sở đầu vào và đầu ra. Bên cạnh việc mở rộng đầu tư xây dựng các công trình hậu cần nghề cá, nuôi trồng thủy sản, cần khuyến khích các DN, cá nhân áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, nuôi trồng. Mặt khác, tăng cường bảo vệ đa dạng nguồn sinh học như rừng ngập mặn, rạn san hô, vùng bãi sinh sản của các loài thủy hải sản. Ngoài ra, Nhà nước và DN cần chung vai đấu cật với nông ngư dân để đảm bảo tính ổn định trong sản xuất, kinh doanh, tránh tình trạng mạnh ai người nấy lo vẫn xảy ra từ trước tới nay.
CHÂU AN KHÁNH




