05:06, 12/06/2005

Xí nghiệp KT-DVTS Khánh Hòa với hướng đi mới

Là một doanh nghiệp Nhà nước, với chức năng nhiệm vụ được giao là khai thác, thu mua hải sản và dịch vụ nghề cá phục vụ nhân dân. Trước vòng quay của cơ chế thị trường, tính năng động...

Phân xưởng chế biến các mặt hàng thủy sản cao cấp ở Xí nghiệp Khai thác và Dịch vụ thủy sản Khánh Hòa.

Là một doanh nghiệp (DN) Nhà nước, với chức năng nhiệm vụ được giao là khai thác, thu mua hải sản và dịch vụ nghề cá phục vụ nhân dân. Trước vòng quay của cơ chế thị trường, tính năng động, tự chủ trong sản xuất kinh doanh (SXKD) của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sự chuyển đổi từ khai thác sang chế biến thủy sản xuất khẩu (CBTSXK) đang là hướng đi mới ở Xí nghiệp Khai thác và Dịch vụ thủy sản Khánh Hòa (XN KT-DVTSKH).

XN KT-DVTSKH được thành lập từ năm 1977, chức năng nhiệm vụ được giao là khai thác, thu mua hải sản và dịch vụ nghề cá phục vụ nhân dân. Thời bấy giờ, với đội tàu hùng hậu trên 20 chiếc, tổng công suất 2.500 CV, XN được đánh giá là đơn vị kinh tế mạnh của tỉnh khi sản lượng đánh bắt đạt hàng ngàn tấn mỗi năm. Sau năm 1990, do nguồn lợi gần bờ ngày càng cạn kiệt, tình hình khai thác thủy sản gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo ra một thách thức mới đối với DN. Trong giai đoạn này, đội tàu đánh bắt thủy sản của XN đã quá cũ kỹ, trong lúc đó, chi phí sản xuất tăng cao, sản lượng khai thác đạt thấp. Chính vì thế, trên 200 lao động của XN chỉ được một nửa số người có việc làm, số còn lại đều phải nghỉ việc không lương, đời sống của công nhân lao động gặp rất nhiều khó khăn.

Trước thực trạng trên, năm 1994, Đảng ủy XN quyết định mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư xây dựng xưởng CBTSXK. Phương châm của giai đoạn này là kết hợp giữa khai thác, dịch vụ và CBTSXK; lấy chế biến để duy trì khai thác. Cùng với việc tập trung điều hành đội tàu khai thác có hiệu quả, nguyên liệu đánh bắt được cung cấp cho xưởng chế biến đã tạo ra một quy trình sản xuất khép kín. Tuy nhiên, quá trình đầu tư xây dựng nhà xưởng chắp vá, công nghệ lạc hậu, chỉ đáp ứng được nhu cầu chế biến các mặt hàng có quy trình công nghệ giản đơn như cá, mực… dạng sơ chế. Vì thế, sản phẩm làm ra thời gian này vẫn loay hoay tìm chỗ đứng trên thị trường.

Khó khăn chồng chất khó khăn, đội tàu của XN không còn khả năng khai thác vì thua lỗ, nguyên liệu phục vụ cho xưởng chế biến lúc này phải mua từ bên ngoài. Trước những khó khăn đó, lãnh đạo XN thống nhất chuyển đổi phương thức sản xuất sang chế biến các mặt hàng TSXK theo hướng tập trung. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, từ năm 2000 - 2004, XN đầu tư nâng cấp các thiết bị nhà xưởng, kho bảo quản với tổng vốn trên 8 tỷ đồng. Với cơ sở vật chất hiện tại, XN có khả năng nâng công suất cấp đông lên 17 tấn ngày, thể tích kho lạnh có khả năng bảo quản trên 600 tấn. Bên cạnh việc đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường sản xuất các mặt hàng có giá trị kinh tế cao, chất lượng luôn là tiêu chí hàng đầu để XN xây dựng uy tín thương hiệu sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước. Đến nay, xưởng CBTS đông lạnh, xưởng thủy đặc sản đã được Bộ Thủy sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành, sản phẩm của XN đã có mặt ở hầu hết các thị trường trên thế giới.

Năm 2000, tổng doanh thu của XN đạt trên 71,3 tỷ đồng, năm 2004 tăng lên 98,74 tỷ đồng. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm của XN đạt gần 7 triệu USD. Trong 5 năm, XN luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao với doanh thu tăng 38,4%, lợi nhuận tăng 121,9% và thu nhập của người lao động tăng 52,9%. Nhờ làm ăn có hiệu quả, hiện XN đã tạo việc làm ổn định cho 500 lao động với mức thu nhập bình quân đạt 1 triệu đồng/người/tháng. Với những thành tích đạt được, nhiều tập thể, cá nhân trong XN được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thủy sản, Bộ Thương mại và UBND tỉnh tặng bằng khen; XN vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba…

CHÂU AN KHÁNH