
Cỏ biển là một nhóm thực vật bậc cao, sống thích nghi ở cửa sông, vũng vịnh, ao đìa, vùng triều ven biển, ven đảo…
Cỏ biển là một nhóm thực vật bậc cao, sống thích nghi ở cửa sông, vũng vịnh, ao đìa, vùng triều ven biển, ven đảo… Chúng phân bố rất rộng từ vùng triều cho đến sâu 20m, quy mô từ các đám nhỏ đơn loài tới các đồng cỏ đa loài rộng lớn hàng km2. Với chiều cao của lá và thân từ vài cm đến vài mét, trong môi trường nước, cỏ biển hoạt động như một máy lọc sinh học, làm giảm độ phì của nước, duy trì cân bằng hệ sinh thái ven bờ, là nơi cư trú thuận lợi cho sinh vật, cung cấp nguồn hữu cơ đầu tiên cho sự sống, là cái nôi sinh vật với sự đa dạng rất cao. Ngoài ra, thân lá cỏ biển làm giảm tác động cơ học của nước biển, làm gia tăng trầm tích, cùng với hệ thống rễ, thân ngầm chằng chịt chúng bảo vệ nền đáy, chống xói lở bờ biển. Tuy có vai trò rất quan trọng đối với môi trường và các hệ sinh thái biển như thế, nhưng do sự tàn phá của con người, diện tích các đồng cỏ biển ngày càng bị thu hẹp, có nơi có nguy cơ bị mất trắng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là số đông người dân chưa nhận thức đầy đủ về những lợi ích của cỏ biển.
Khánh Hòa là một trong số ít địa phương trong cả nước có các đồng cỏ biển rất phong phú, không những về phương diện đa loài (9/15 loài) mà còn về diện tích phân bố và mật độ cây khá cao, nhưng nay đang ở trong tình trạng bị hủy diệt nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của Viện Hải dương học Nha Trang, trong 5 năm (1997 - 2002), diện tích thảm cỏ biển Khánh Hòa từ 1.235 ha giảm xuống chỉ còn 795 ha. Tiêu biểu vùng Mỹ Giang, Ninh Tịnh (Ninh Hòa) suy giảm tới 75%, Cửa Bé (Nha Trang) giảm 85,71%, vịnh Cam Ranh 33,38%…
Trước thực trạng trên, từ năm 1998, các nhà khoa học Viện Hải dương học Nha Trang đã dày công nghiên cứu, tìm hiểu về hệ sinh thái cỏ biển, các vùng bị suy giảm trong cả nước để triển khai đề tài “Phục hồi các đồng cỏ biển”. Sau khi nghiên cứu và trồng thử nghiệm trong phòng thí nghiệm 3 loại cỏ biển có ưu thế tại Khánh Hòa: Cỏ Vích (Thalassia hemprichii), cỏ Kiệu răng cưa (Cymodocea serrulata), cỏ Lá dừa (Enhalus acoroides) bằng 2 phương pháp: cho sinh sản bằng cơ quan sinh sản dinh dưỡng, dùng hạt cỏ cho nảy mầm để tạo ra các cây con. Kết quả cho thấy các loài cỏ biển đều phát triển tốt, có thể sử dụng trồng hàng loạt ra tự nhiên.
|
| Đồng cỏ biển được phục hồi tại thôn 4, xã Cam Hải Đông, thị xã Cam Ranh. |
Từ những thành công trong nghiên cứu, các nhà khoa học đưa ra ứng dụng phục hồi trong tự nhiên hơn 2.000m2 cỏ Lá dừa tại đầm Thủy Triều, thuộc địa phận xã Cam Hải Đông, thị xã Cam Ranh. Đây là vùng phân bố tự nhiên của cỏ biển với diện tích ước chừng 40 ha, có vành đai phân bố trải dài theo ven bờ khoảng 3,5km. Qua 4 tháng di trồng, cỏ biển thích nghi nhanh và tăng trưởng khá tốt, tốc độ tăng trưởng lá trung bình 0,67cm/ngày. Song song với việc di trồng, loài sinh vật có giá trị như hải sâm cát, cá ngựa cũng được thả nuôi và chúng tăng trưởng khá nhanh.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại - chủ trì nội dung nghiên cứu - cho biết: “Muốn thành công trong việc chuyển giao rộng rãi mô hình này trong cộng đồng, ngoài việc nâng cao nhận thức cho người dân, chính quyền địa phương phải có mô hình quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên hệ sinh thái cỏ biển. Như có thể giao khoán cho từng hộ dân một diện tích mặt đầm nhất định, người được giao khoán có trách nhiệm trồng và bảo vệ các thảm cỏ biển. Đồng thời có thể thả nuôi, phục hồi và khai thác các loài sinh vật có giá trị kinh tế cao trong diện tích giao khoán của mình”.
THẢO LY





