02:08, 31/08/2004

Phát triển ngành nghề ở miền núi, bằng cách nào?

Khu vực miền núi Khánh Hòa có diện tích tự nhiên 293.500 ha, chiếm 63,5% diện tích toàn tỉnh, khí hậu ôn hòa, ít bão, lượng mưa tương đối cao, thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng...

Nuôi bò - Một giải pháp xóa đói giảm nghèo cho người dân miền núi.

Khu vực miền núi Khánh Hòa có diện tích tự nhiên 293.500 ha, chiếm 63,5% diện tích toàn tỉnh, khí hậu ôn hòa, ít bão, lượng mưa tương đối cao, thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề trên địa bàn, nhằm làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.

Tuy có những thuận lợi trên, nhưng đất nông nghiệp ở miền núi chỉ chiếm 6% diện tích đất tự nhiên, do vậy việc trồng cây lương thực, nhất là cây lúa nước ít có điều kiện mở rộng, làm cho phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng trên, những năm qua, Chương trình phát triển KT - XH miền núi đã đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, phát huy nội lực của từng hộ sản xuất là chính. Mấy năm gần đây, ở từng vùng đã hình thành nhiều vườn cây ăn quả, cây công nghiệp đặc thù như: Cà phê, tiêu ở Khánh Sơn (trên 500 ha); điều, xoài ở Khánh Vĩnh (1.420 ha). Đặc biệt, cây mía tím Khánh Sơn mấy năm gần đây phát triển khá, cho lợi nhuận cao, là một trong những loại cây phát triển mạnh trong cơ cấu cây trồng. Hiện nay, miền núi cũng đang có xu thế phát triển ngành chăn nuôi. Tổng đàn bò toàn tỉnh có khoảng 61.000 con, tốc độ tăng đàn mỗi năm 2,5 - 3%, phân bố tập trung tại các huyện; riêng hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh có tiềm năng phát triển đàn bò rất lớn nhưng số lượng chỉ chiếm 13,5% tổng đàn. Ngoài ra, vùng núi còn phát triển về lâm nghiệp, diện tích rừng chiếm 78% diện tích tự nhiên với tài nguyên rừng phong phú, có nhiều cây quý hiếm như: Mun, trắc dây, hoàng đàn, bách xanh… có giá trị kinh tế cao. Rừng đang ngày càng phát triển, toàn tỉnh có trên 6.000 ha cây dầu, sao; trên 10.000 ha cây keo lai, bạch đàn và trên 10.000 ha rừng thông ở Khánh Sơn đang phát triển tốt. Các sản phẩm rừng ngoài gỗ còn có cây song mây, lồ ô, lá buông và cây dược liệu khác làm tăng giá trị của rừng và phục vụ cho phát triển hàng tiểu thủ công nghiệp.

Nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình phát triển KT - XH miền núi giai đoạn 2001 - 2005 và những năm tiếp theo là tập trung đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình, phát huy nội lực của từng hộ sản xuất là chính; có hệ thống chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút nhân lực, vốn đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật của các doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài tỉnh để đầu tư phát triển kinh tế miền núi nói chung và kinh tế hộ gia đình nói riêng. Xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp một cách cân đối, ổn định và bền vững. Các huyện, xã cùng với ngành Nông nghiệp vận động, hướng dẫn, giúp đỡ các hộ dân tộc thiểu số phát triển kinh tế vườn nhà, vườn rừng, trồng cây và chăn nuôi trang trại; tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và phòng chống sâu bệnh thường xuyên, cụ thể theo từng vụ đối với từng loại cây trồng, vật nuôi. Ngành Nông nghiệp tổ chức cung ứng giống, giới thiệu và hướng dẫn áp dụng giống mới vào sản xuất; tập trung vào các loại giống: Cây lương thực, cây ăn trái, cây thực phẩm ngắn và dài ngày; các loại con như: bò, heo, gia cầm, thủy sản nước ngọt nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế vườn nhà, kinh tế hộ gia đình. Đồng thời, phát triển các loại giống cây công nghiệp, cây ăn trái dài ngày nhằm phục vụ phát triển kinh tế vườn rừng kết hợp với kế hoạch trồng rừng của tỉnh. Cụ thể, đưa vào trồng các loại cây có năng suất cao: Cây ăn trái (nhãn, xoài cát, na, bưởi, cam sành, quýt, chuối, đu đủ, mít, hồng xiêm, sầu riêng… và một số giống mới: Ổi, lê Đài Loan, bơ Mỹ, măng cụt…); cây công nghiệp (chè, chè đắng, bông, đậu, lạc, cây dó bầu…); cây lâm nghiệp (keo lai, bạch đàn, thông…). Đồng thời đẩy mạnh phát triển chăn nuôi: Nuôi lợn thâm canh, bò sữa, bò thịt, dê… Phát triển nuôi thủy sản nước ngọt: Cá trắm cỏ, cá mè trắng, cá chép, cá trôi, cá rô phi và một số loại có giá trị xuất khẩu cao: ba ba, tôm càng xanh… ngoài ra, phát triển một số ngành nghề dựa vào nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ xuất khẩu: Đũa tre, bột giấy, mây, lá kết hợp với bẹ chuối, lá buông là những ngành nghề giải quyết được nhiều việc làm cho người dân.

CẨM VÂN