
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là từ 1-1-2005 các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bãi bỏ hạn ngạch cho nhau...
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là từ 1-1-2005 các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bãi bỏ hạn ngạch cho nhau theo tiến trình ATC, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi và thách thức mới cần có những giải pháp mang tính đột phá.
TTXVN đã phỏng vấn ông Lê Văn Thắng - Phó Vụ trưởng Vụ Xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại xung quanh vấn đề này. Sau đây là nội dung phỏng vấn.
Xin ông đánh giá khái quát về thực trạng năng lực của ngành dệt may Việt Nam hiện nay.
Trả lời: Việt Nam vẫn là quốc gia non trẻ trong lĩnh vực dệt may trên thị trường thế giới. Việc ký Hiệp định dệt may với EU năm 1993 là điểm mốc đánh dấu bước phát triển mới của ngành này. Nếu như năm 1993, chúng ta mới xuất khẩu được khoảng 300 triệu USD thì đến năm 2003 đã xuất khẩu được 3,7 tỉ USD. Xét về số lượng xuất khẩu dệt may của Việt Nam hiện nay so với thế giới còn nhỏ bé nhưng nếu nhìn quá trình phát triển của năng lực sản xuất dệt may thì đó là bước phát triển vượt bậc, gấp gần 12 lần sau 10 năm.
Kỹ năng lao động của người Việt Nam được khách hàng nước ngoài đánh giá tốt. Với cùng một loại sản phẩm, cùng công nghệ, quy mô sản xuất tương ứng thì người lao động Việt Nam có thể sản xuất ra những mặt hàng có chất lượng và giá bán cao hơn các nước khác từ 10-15%.
Với trên 1.000 doanh nghiệp, thu hút trên 2 triệu lao động, mục tiêu năm 2004 của ngành dệt may là đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 4,2 tỉ USD, 7 tháng đầu năm đã xuất được khoảng 2,5 tỉ USD. Thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn là Hoa Kỳ khoảng 2 tỉ USD, EU 1 tỉ USD, Nhật Bản khoảng 650 triệu USD.
Tuy nhiên, do chưa chủ động được nguồn nguyên vật liệu nên hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước chủ yếu là gia công. Theo đánh giá của Bộ Công nghiệp, ngành dệt kim trong nước mới đáp ứng được 30% vải cho xuất khẩu, dệt thoi khoảng 5-10%; đa phần còn lại phải nhập nguyên-phụ liệu từ Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc.
Những thuận lợi và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh giả sử Việt Nam chưa thể gia nhập WTO vào năm 2005? Giải pháp nào để tháo gỡ những khó khăn đó, thưa ông?
Trả lời: Nếu Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2005 thì năm 2006 mới được bỏ hạn ngạch hàng dệt may. Đây thực sự là một thách thức lớn trong năm 2005. Việt Nam khó cạnh tranh do thiếu nguyên phụ liệu, công nghệ chưa đạt trình độ cao bằng các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtan, Băngla Đét; các chi phí khác liên quan như viễn thông, vận tải đều cao hơn các nước trong khu vực tuy gần đây cước phí một số loại dịch vụ viễn thông đã được giảm bớt. Tuy nhiên chúng ta có một số lợi thế cạnh tranh như các nhà máy trải dài dọc đường bờ biển, từ các nhà máy ra các cửa khẩu rất gần - đây là điều kiện thuận lợi để giảm chi phí vận tải, nguồn lao động dồi dào, khéo léo, chi phí lao động không cao lắm.
Nếu 2005 Việt Nam chưa vào được WTO thì khó khăn sẽ càng lớn hơn, đòi hỏi phải đầu tư rất lớn về nguyên phụ liệu và công nghệ. Với tiến trình hội nhập và yêu cầu chuyên môn hoá sản phẩm thì các doanh nghiệp nên chọn những công đoạn có lợi thế cạnh tranh và thu nhiều lợi nhuận để làm. Ở Việt Nam hiện nay, ngành may có năng lực khá lớn và thu được lợi nhuận cao hơn ngành dệt.
Bộ Thương mại đang cùng với Bộ Công nghiệp kiến nghị Nhà nước áp dụng các chính sách ưu đãi về đầu tư, về thuế đất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và các thuế khác để hấp dẫn đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên phụ liệu để có được nguồn nguyên liệu tại chỗ đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu.
Hiện nay, các nhà đầu tư đến với Việt Nam chủ yếu sử dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào dịch vụ khách hàng tốt và trong những năm tới đây, khách hàng đến Việt Nam đặt hàng gia công vẫn có cơ hội thu được lợi nhuận cao.
Đánh giá của ông về Chương trình Tăng tốc Dệt may?
Trả lời: Một số chỉ tiêu không đạt được, đáng mừng là chỉ tiêu về xuất khẩu đã đạt được. Năm 2004 có thể vượt mức 4 tỉ USD, năm sau là 4,5-5 tỉ USD. Tuy nhiên, để đạt chỉ tiêu 5 tỷ USD cần phải giải được bài toán thị trường với EU, Mỹ. Nhà nước đang tích cực đàm phán với EU và Mỹ nhằm khắc phục khó khăn về hạn ngạch - một trong những nguyên nhân lớn khiến dòng vốn đầu tư vào ngành này đang chững lại. Khâu hạn ngạch cần phải có bước đột phá ngay từ những tháng cuối của năm 2004 thì mới có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào năm 2005.
Về lâu dài, trọng điểm đầu tư ngành này là dệt và nhuộm, nâng cao chuyên môn hoá ngành may, đầu tư công nghệ mới cho những mặt hàng cao cấp, tăng cường đầu tư hàng thời trang với những thương hiệu nổi tiếng giới để dệt may tiếp tục là trụ cột xuất khẩu của Việt Nam, giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ. Cứ tăng xuất khẩu 1 tỉ USD sẽ tạo ra việc làm cho khoảng 50 vạn lao động.
Theo TTXVN





