
Nhiều năm qua, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra phổ biến trong đồng bào người dân tộc thiểu số ở huyện Khánh Vĩnh. Địa phương đang tìm giải pháp phối hợp tuyên truyền đồng bộ để ngăn chặn tình trạng này.
Nhiều năm qua, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra phổ biến trong đồng bào người dân tộc thiểu số ở huyện Khánh Vĩnh. Địa phương đang tìm giải pháp phối hợp tuyên truyền đồng bộ để ngăn chặn tình trạng này.
Kết hôn sớm
Khánh Vĩnh là huyện miền núi, có 75% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số. Do trình độ dân trí thấp, nhận thức hạn chế, người dân ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản nên tình trạng sinh dày, sinh nhiều vẫn còn diễn ra phổ biến. Đây là một trong 2 huyện có mức sinh cao nhất tỉnh với tỷ suất sinh 19,66‰ và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 21,34%. Đáng quan tâm nhất, nạn tảo hôn vẫn còn xảy ra tại nhiều xã. Nhiều trẻ vị thành niên mang thai, lập gia đình khi mới 15, 16 tuổi, thậm chí có 5 trường hợp lập gia đình khi mới 13, 14 tuổi.
![]() |
| Tuyên truyền giảm tảo hôn cho người dân |
Em Cao Thị Điệm sinh năm 1997, ở thôn Hòn Dù, xã Khánh Nam lấy chồng ở tuổi 16. Chồng em là Cao Long, 20 tuổi, ở xã Khánh Trung. Hiện nay vợ chồng em đã có 2 con, đứa lớn 3 tuổi, đứa nhỏ 13 tháng, bị suy dinh dưỡng. Điệm cho biết: “Cả hai vợ chồng em học đến lớp 6 thì nghỉ học. Vì nhà nghèo, em đông nên hàng ngày em phải theo bố mẹ làm rẫy. Em không hiểu kết hôn sớm là vi phạm pháp luật. Em chỉ biết theo phong tục, con gái lớn là bắt chồng về để cùng sinh sống, làm ăn”.
Em Cao Thị Liễu, sinh năm 1998, ở thôn Hòn Dù lấy chồng từ lúc 15 tuổi. Em không biết tuổi của chồng, chỉ biết chồng tên là Cao Văn Trường, người cùng làng. “Em đã có 2 con, nhưng chồng bắt sinh thêm nên em đang mang thai đứa thứ 3. Chồng em làm rẫy, cuộc sống gia đình khổ lắm, nhà vách đất tạm bợ, chật vật cái ăn”, Liễu nói…
Trẻ vị thành niên lập gia đình sớm diễn ra khá nhiều tại 14 xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Thống kê từ năm 2011 đến nay, toàn huyện có 146 cặp tảo hôn. Một số xã có nhiều cặp tảo hôn như: Khánh Hiệp 28 cặp; Giang Ly và Sơn Thái 14 cặp; Khánh Trung 15 cặp; Liên Sang và Khánh Thành 12 cặp…
Phối hợp trong tuyên truyền
Theo cán bộ chuyên trách dân số của một số xã, địa phương có tổ chức tuyên truyền nhóm cho vị thành niên, thanh niên về ngăn ngừa tình trạng tảo hôn nhưng các em thường e ngại không đến nghe. Tuyên truyền viên đến nhà thì phụ huynh trốn, che giấu rồi âm thầm tác hợp cho con cái lấy nhau, sinh đẻ tại nhà hoặc trên nương rẫy. “Toàn xã có hơn 500 hộ, trong đó có đến 389 hộ nghèo. Xã thuộc nhóm có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao nhất huyện với tỷ lệ 23,68%, trong đó có 10 trường hợp tảo hôn”, chị Đặng Thị Thúy, cán bộ chuyên trách dân số xã Khánh Nam cho hay.
Ông Đặng Thanh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình huyện cho biết, tảo hôn đang diễn ra tại nhiều địa phương của huyện. Chính quyền các xã chưa theo dõi sát sao để ngăn chặn, trong khi đó luật pháp chưa đủ sức răn đe, vì thế người dân chưa chấp hành. Bên cạnh đó, đa số các trường hợp tảo hôn đều được sự đồng ý của 2 bên gia đình nên các em chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nên huyện cũng gặp khó khăn trong việc ngăn chặn tình trạng tảo hôn. Tháng 4-2015, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 498 phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2025” (gọi tắt Đề án 498). Việc thực hiện đề án trên địa bàn huyện giao cho Phòng Dân tộc phụ trách nên ngành Dân số huyện chỉ tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân về hôn nhân và gia đình là chủ yếu. Thời gian tới, việc triển khai thực hiện Đề án 498 trên địa bàn huyện cần có sự phối hợp giữa các ngành, Mặt trận, đoàn thể thì công tác tuyên truyền giảm tảo hôn mới có thể sâu rộng, thường xuyên, đồng bộ và phát huy hiệu quả.
Theo ông Trần Xuân Minh, cán bộ Phòng Dân tộc huyện, phụ trách Đề án 498, để ngăn chặn tình trạng tảo hôn trên địa bàn huyện, phòng đã xây dựng kế hoạch tham mưu UBND huyện với các hoạt động cụ thể, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho các ban, ngành, đoàn thể tham gia đề án. Bên cạnh đó, sẽ tổ chức khảo sát nhu cầu tìm hiểu về Luật Hôn nhân và gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số để lựa chọn hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp; xây dựng cơ chế quản lý, phối hợp giữa các đơn vị được giao chủ trì với các cơ quan, tổ chức liên quan và UBND các xã trong việc triển khai thực hiện đề án. Cùng với đó, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện kế hoạch đề án của các cơ quan, ban, ngành, đơn vị liên quan; phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng biên soạn tài liệu, xây dựng tin, bài, chuyên mục, tiểu phẩm… bằng tiếng dân tộc bản địa nhằm tuyên truyền có hiệu quả. Bên cạnh đó, huy động các nguồn lực khác cùng tham gia công tác tuyên truyền, vận động, đặc biệt là các già làng, người có uy tín trong cộng đồng; lồng ghép tuyên truyền nội dung đề án trong các hoạt động chuyên môn của các cơ quan, đơn vị…
THIẾT TRANG




