
Theo thống kê của Công an tỉnh Khánh Hòa, đến ngày 15-5, số đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh có hồ sơ quản lý là 1.033 đối tượng.
Theo thống kê của Công an tỉnh Khánh Hòa, đến ngày 15-5, số đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh có hồ sơ quản lý là 1.033 đối tượng. Toàn tỉnh có 8/9 huyện, thị xã, thành phố có người nghiện ma túy. Trong đó, 88 xã, phường, thị trấn có người nghiện ma túy; 19 xã, phường, thị trấn trọng điểm về ma túy.
Những nỗ lực
Về công tác điều trị cai nghiện ma túy, hiện nay, trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở cai nghiện tư nhân. Việc điều trị cai nghiện ma túy được thực hiện tại Trung tâm Giáo dục - Lao động xã hội bằng 2 hình thức: cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tự nguyện. 5 năm qua, trung tâm đã tổ chức cai nghiện phục hồi cho hơn 400 lượt người nghiện ma túy, trong đó, hơn 100 lượt người cai nghiện tự nguyện. 100% đối tượng được cắt cơn giải độc, chữa bệnh; được tham gia lao động trị liệu; được tuyên truyền giáo dục chủ trương, pháp luật của Đảng, Nhà nước và được tư vấn nghề, hướng nghiệp chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng. Ông Trần Quốc Thông - Quyền Chi cục trưởng Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) cho biết, hiện chi cục đang xây dựng đề án để Sở tham mưu UBND tỉnh kiện toàn trung tâm theo hướng đa chức năng, ngoài thực hiện cai nghiện bắt buộc và tự nguyện còn tiếp nhận người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định và điều trị bằng Methadone.
![]() |
| Bệnh nhân điều trị bằng Methadone tại Trung tâm Phòng, chống HIV - AIDS tỉnh |
Từ năm 2013 đến nay, trên địa bàn tỉnh triển khai thực hiện mô hình cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng tại 30 xã, phường với 58 người tham gia cai nghiện. Sở LĐ-TB-XH đã chỉ đạo triển khai thí điểm mô hình điểm tư vấn chăm sóc, hỗ trợ điều trị nghiện và tái hòa nhập cộng đồng tại phường Phước Hải (Nha Trang) nhằm tư vấn nâng cao nhận thức của người nghiện và gia đình, vận động người nghiện tham gia các chương trình điều trị nghiện, hỗ trợ tư vấn tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm... Với mục tiêu đó, trong năm 2015, Sở sẽ nhân rộng mô hình thêm 5 điểm tư vấn tại thị trấn Vạn Giã (Vạn Ninh), Diên Khánh (huyện Diên Khánh), phường Phương Sơn (Nha Trang), phường Cam Thuận (Cam Ranh) và phường Ninh Thủy (Ninh Hòa); đến năm 2020, mỗi địa phương sẽ có ít nhất 2 điểm tư vấn.
Theo Sở LĐ-TB-XH, hiện nay, tình hình hoạt động mại dâm trên địa bàn tuy được các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp. Thống kê đến tháng 5-2015, có 1.509 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện môi trường dễ phát sinh tệ nạn xã hội, gồm: 413 khách sạn và nhà nghỉ dưỡng; 182 nhà nghỉ, 329 nhà trọ, 4 vũ trường, 158 cơ sở kinh doanh karaoke và 427 nhà hàng, quán cà phê, hớt tóc thư giãn. Số đối tượng nghi vấn có hành vi bán dâm khoảng 450 đến 500 người, đa số ở ngoại tỉnh. Thời gian qua, ngành đã tăng cường các hoạt động phòng ngừa, tuyên truyền cộng đồng không để con em sa vào con đường mại dâm, vận động người bán dâm hoàn lương, trợ giúp việc làm, hỗ trợ vay vốn… Thực hiện Nghị quyết 25 của HĐND tỉnh, 5 năm qua, 21 người bán dâm, 32 người nghiện ma túy đã được vay vốn hơn 1 tỷ đồng để hoàn lương. Hầu hết những người này đều không trở lại con đường cũ, có cuộc sống tốt hơn trước.
Còn nhiều khó khăn
Theo ông Trần Quốc Thông, công tác phòng, chống mại dâm và cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh hiện còn nhiều khó khăn. Trên lĩnh vực phòng, chống mại dâm, theo quy định hiện hành, người bán dâm không bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn và không đưa vào cơ sở chữa bệnh đã gây khó khăn cho công tác phòng, chống mại dâm tại địa phương. Cụ thể: việc quy định xử phạt người bán dâm vi phạm còn nhẹ (từ 300.000 đến 500.000 đồng) nên không đủ tính răn đe; người bán dâm không nộp phạt cũng không có biện pháp chế tài. Bên cạnh đó, hiện nay, các biện pháp quản lý người bán dâm tại cộng đồng vẫn chưa có quy định cụ thể. Các hoạt động chỉ mang tính mô hình thử nghiệm như thành lập các câu lạc bộ, các hoạt động can thiệp giảm hại thông qua nhóm tự lực của người bán dâm nên hiệu quả hạn chế. Vì thế vẫn còn những tác động tiêu cực đối với xã hội. Người bán dâm núp dưới hình thức “tiếp viên gọi”, “gái gọi”, “nhân viên gọi” đăng ký tạm trú tại nơi thuê trọ dùng điện thoại di động, Internet để liên lạc, móc nối bán dâm nên rất khó kiểm soát. Hiện nay, tình trạng các chủ kinh doanh karaoke, hớt tóc thanh nữ sử dụng đội ngũ “tiếp viên gọi”, “nhân viên gọi”, chứ không ký hợp đồng lao động với nhân viên; qua địa điểm này đối tượng tiếp xúc, chào mời nhau để mua bán dâm gây khó khăn trong đấu tranh xử lý. Từ sau khi Nghị quyết 24 của Quốc hội được công bố, các địa phương còn lúng túng trong việc định hướng công tác phòng, chống mại dâm trong tình hình hiện nay như: vấn đề xử lý người bán dâm không khả thi; tính pháp lý để xác định người bán dâm không đủ căn cứ vì không có hồ sơ để quản lý. Do vậy các hoạt động để giúp đỡ, hỗ trợ hoàn lương; công tác giám sát người bán dâm gặp nhiều khó khăn làm hạn chế hiệu quả việc can thiệp giảm tác hại của tệ nạn mại dâm.
Trên lĩnh vực cai nghiện ma túy, số đối tượng nghiện ma túy trong thanh thiếu niên tăng; nhất là tình trạng sử dụng chất ma túy tổng hợp ngày càng có xu hướng tăng, trong khi chưa có phác đồ điều trị của ngành Y tế hướng dẫn. Từ sau Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, việc đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 221 của Chính phủ gặp nhiều vướng mắc. Đến nay, toàn tỉnh mới đưa được 1 người nghiện vào cai nghiện bắt buộc tại trung tâm, trong khi tình hình người nghiện ma túy ngoài cộng đồng đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Công tác cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú còn đang ở bước đầu triển khai nên cũng gặp nhiều khó khăn lúng túng. Cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội ở xã, phường, thị trấn làm kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ năng... nên hạn chế hiệu quả công tác. Người nghiện ma túy trên địa bàn sau khi hòa nhập cộng đồng tái nghiện tăng cao, trên 87,3%. Công tác quản lý sau cai nghiện tại cộng đồng chủ yếu bằng các biện pháp hành chính, các dịch vụ hỗ trợ sau cai nghiện như học nghề, giải quyết việc làm, tư vấn... còn hạn chế cũng góp phần làm cho tỷ lệ tái nghiện tăng cao.
Bên cạnh đó, công tác điều trị nghiện bằng Methadone tại trung tâm mới bắt đầu triển khai nhưng thiếu các điều kiện để thực hiện như: phải đào tạo lại cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phù hợp, do vậy cần phải có thời gian. Hiện nay, có tình trạng người nghiện vừa tham gia điều trị bằng Methadone vừa sử dụng ma túy nên rất nguy hiểm mà chưa có biện pháp ngăn chặn. Ngoài ra, chưa có quy trình phối hợp điều trị bằng Methadone giữa cơ sở Methadone với các cơ sở khám, chữa bệnh, trại giam, trại tạm giam, Trung tâm Giáo dục - Lao động xã hội trong tỉnh khi bệnh nhân điều trị bằng Methadone có nhu cầu chuyển tiếp điều trị.
N.D




