07:02, 12/02/2005

Nghĩ dọc đường Xuân

Mùa Xuân đang đến rất gần, gần đến nỗi ngỡ như lắng nghe được cả từng nhịp thở của đất trời, của cỏ cây hoa lá. Sương giá lạnh lẽo đã không thể nào cản nổi bước chân thoăn thoắt của nàng Xuân.

Xuân về trên thành phố biển.

Mùa Xuân đang đến rất gần, gần đến nỗi ngỡ như lắng nghe được cả từng nhịp thở của đất trời, của cỏ cây hoa lá. Sương giá lạnh lẽo đã không thể nào cản nổi bước chân thoăn thoắt của nàng Xuân. Hàng đêm nhìn lên tấm bản đồ dự báo thời tiết lòng bỗng thấy xốn xang, hóa ra cái dải đất hình chữ S này luôn phải hứng chịu nhiều cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Nắng lắm mưa nhiều, hạn hán rồi bão lụt triền miên dường như đã tôi luyện cho con người Việt Nam có một sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai đến kỳ lạ. Thiên tai rồi địch họa cùng hùa với nhau hoành hành, tác oai tác quái, cứ ngỡ đất này một sớm một chiều tan thành mây khói. Ấy vậy mà lạ thay, sức sống Việt Nam vẫn cứ cuồn cuộn dâng trào, không ngừng không nghỉ sinh sôi, bất chấp mọi trở lực.

Ngồi nhâm nhi bên ly rượu, trong cái khoảnh khắc chuyển giao giữa năm cũ sang năm mới, lòng những rưng rưng ngược dòng lịch sử lên tận thời gian của những năm đầu thế kỷ XX, khi mà đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ, cả dân tộc rên xiết trước đường hầm ngập ngụa không lối thoát. Không cam chịu kiếp ngựa trâu, các bậc sĩ phu đã hâm bầu máu nóng dựng cờ tụ nghĩa, chiêu nạp anh hào tập hợp lực lượng chống quân xâm lược. Xiết bao máu chảy đầu rơi. Người trước ngã, người sau đứng dậy… Tiếc thay, do chưa có một bộ tham mưu đủ sức vạch ra đường hướng chiến lược cho nên tất cả những phong trào ấy cuối cùng đều bị dìm trong biển máu. Những khúc bi tráng đẫm máu và nước mắt của những người yêu nước, mãi vẫn còn đó như một lời thức tỉnh giống nòi. Đau thương và uất hận ngút trời hẳn sẽ còn tiếp diễn dài dài nếu như mùa Xuân năm Canh Ngọ (1930) chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam chưa ra đời. Được soi rọi bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, và được chèo lái bởi lãnh tụ thiên tài Nguyễn Ái Quốc, kể từ đây, con thuyền cách mạng Việt Nam vững vàng vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở, hướng tới bến bờ vinh quang.

Có lẽ ngay cả những người giàu trí tưởng tượng nhất cũng khó có thể nghĩ tới chuyện một dân tộc vừa bị kiệt quệ bởi nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) cướp đi hơn 2 triệu sinh mạng lại có thể trong một thời gian ngắn đã nhất tề vùng dậy làm một cuộc cách mạng long trời lở đất, đập tan xích xiềng nô lệ, lật nhào ách thống trị của thực dân phong kiến, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự đã làm hồi sinh cả một dân tộc; thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho con người. Và sức mạnh ấy lại được nhân lên gấp bội khi lời hiệu triệu toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ kính yêu được truyền đi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. Đáp lại lời hịch non sông, hàng triệu người Việt Nam từ thành thị đến thôn quê đã đứng lên với gậy tầy giáo nhọn “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sát cánh bên nhau chiến đấu giữ gìn nền độc lập của nước nhà. Những bờ tre gốc rạ hiền hòa cũng trở thành trận địa tiêu diệt quân xâm lược. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp kết thúc với chiến thắng Điện Biên “chấn động địa cầu” đã khiến cho bè bạn quốc tế vô cùng kinh ngạc và cảm phục. Hai tiếng Việt Nam trở thành biểu tượng chói ngời đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, cổ vũ họ đứng lên tranh đấu tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Có lẽ trên thế giới chưa có một dân tộc nào phải đối mặt với thử thách mất còn nghèo ngặt như dân tộc Việt Nam. “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!”. Phải mất thêm hai chục năm anh dũng chiến đấu và hy sinh gan góc, đến mùa Xuân năm 1975 chúng ta mới đi trọn con đường. Đất nước sạch bóng quân xâm lược, non sông gấm vóc thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh dằng dai, cả dân tộc bắt tay ngay vào công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng kinh tế từ trên đống tro tàn đổ nát. Trong hào quang chiến thắng quả thật không tránh khỏi có lúc con người rơi vào bốc đồng, ảo tưởng, thậm chí tự huyễn hoặc mình. Rồi chiến tranh hai đầu biên giới, lụt Bắc lụt Nam, trong hoàn cảnh bị bao vây cấm vận, đất nước đứng trước những thử thách vô cùng nghiệt ngã. Không ít người đã nản lòng, nhụt chí. Nhưng chính vào thời điểm khó khăn cùng cực nhất thì luồng gió đổi mới của Đảng đã kịp làm hồi sinh nguồn nội lực lớn lao và khơi dậy sức sáng tạo vô biên của cả một dân tộc. Khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, trong mỗi người chúng ta không sao tránh khỏi những giây phút hoang mang, chao đảo. Các thế lực thù địch hí hửng chắc mẩm phen này sẽ xóa sổ nốt tiền đồn của phe cộng sản, tạo nên một “chiến thắng không cần chiến tranh” như quan thầy chúng hằng dự định. Lạ kỳ thay, Việt Nam vẫn vững như bàn thạch trước phong ba bão táp và từng bước lột xác và cất cánh. Từ chỗ thiếu đói phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì trong khu vực. Điều thần diệu ấy giống như chuyện cổ tích của thời hiện đại.

Từ mùa Xuân Ất Dậu (1945) đến mùa Xuân Ất Dậu (2005) vừa tròn một hoa giáp 60 năm. Ấy là cả một chặng đường đầy chông gai, sóng gió, với những chiến công vang dội, những kỳ tích huy hoàng gắn với hai chữ Việt Nam. Mỗi khi nghĩ đến vận nước tôi vụt nhớ đến câu thơ đầy sức khái quát của Tố Hữu: “Đâu phải đường xanh. Đường qua máu chảy/Năm mươi năm, máu đỏ thành hoa/Cuộc sinh nở nào đau đớn vậy?/Rất tự hào, mà xót tận trong da”. Vâng, đúng vậy, lịch sử thường có những điểm nhấn, có những khúc quanh co và cả những bước ngoặt không ngờ. Có lẽ đây là giai đoạn đau thương và hào hùng nhất, song cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hãy nhớ lấy và truyền lại cho con cháu mai sau. Chớ bao giờ được phép vong ân với Tổ quốc và giống nòi!

Những ngày cuối năm Giáp Thân, chúng tôi có dịp “hành phương Nam” một chuyến suốt dọc dài các tỉnh cực Nam Trung bộ, băng qua mảnh đất miền Đông “gian lao mà anh dũng”, bơi xuồng ba lá trong bạt ngàn rừng tràm Đồng Tháp, men theo biên giới Tây Nam của Tổ quốc lên tận cửa khẩu Tịnh Biên và cuối cùng là đáp tàu cao tốc ra tận Phú Quốc, hòn đảo ngọc. Bắt gặp những miệt vườn sum suê, được thả hồn trong khung cảnh sông nước miên man nghe câu vọng cổ không khỏi bùi ngùi nhớ tới công lao của các bậc tiền hiền đã có công mở cõi. Lần đầu tiên trong đời đặt chân đến những địa danh như Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá… lòng bồi hồi, xúc động bởi đất nước mình đâu cũng đẹp như tranh. Những tên đất như Bảy Núi, Tức Dụp, Kiên Lương, Hòn Đất, lộ Vòng Cung; những kinh rạch, vàm xáng chằng chịt ghe xuồng gợi lại không khí náo nức của những ngày đánh Mỹ. Ghé Phú Quốc, hòn đảo nằm về phía Tây Nam một thời từng được biết đến như một địa ngục trần gian đầy ải giam cầm hơn 40.000 chiến sĩ cách mạng. Giờ đây, với tiềm năng sẵn có của mình Phú Quốc đang trở thành một hòn “đảo giấu vàng”. Những sản vật của xứ này đã nổi tiếng trên thế giới như: hồ tiêu, nước mắm và giống chó Phú Quốc được đưa vào Từ điển Larousse. Đất thanh bình đơm hoa kết trái hạnh phúc nhờ bởi các thế hệ cha anh đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ từng tấc đất của quê hương.

Đi xa cũng giống như cách ta lấy độ lùi để mà nghiền ngẫm, mà nhìn lại cho thật thấu đáo và trầm tĩnh hơn, để mà yêu hơn xứ sở mình đang sống. Tự hào về Nha Trang - Khánh Hòa, ta càng tự hào về đất nước mình, về một cõi giang sơn cẩm tú; càng tự hào về Đảng quang vinh lòng chúng ta càng dạt dào thương nhớ Bác Hồ, vị lãnh tụ thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới. “Một năm khởi đầu bằng mùa Xuân. Một đời khởi đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của đất nước!”. Lời dạy của Người sẽ còn vang vọng mãi đến mai sau.

Chào nhé, Xuân Ất Dậu!

NGUYỄN MINH NGỌC