Bệnh giun chỉ bạch huyết (GCBH) do một loại giun sống trong hệ thống bạch huyết gây nên. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng (giun non) lưu thông trong máu...
Bệnh giun chỉ bạch huyết (GCBH) do một loại giun sống trong hệ thống bạch huyết gây nên. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng (giun non) lưu thông trong máu. Bệnh lây truyền do muỗi đốt. Đa số người bệnh (90 - 95%) nhiễm GCBH nhưng không có các biểu hiện lâm sàng trong nhiều năm thậm chí có thể cả đời. Trường hợp có các biểu hiện lâm sàng thường có những triệu chứng như: sốt cao, đột ngột, kèm theo mệt mỏi, nhức đầu. Sau sốt có triệu trứng viêm bạch hạch và hạch bạch huyết. Triệu trứng này tái phát từng đợt, mỗi đợt kéo dài 3 - 7 ngày. Nếu không được chữa trị, hệ thống tuần hoàn sẽ bị ứ trệ dẫn đến phù chân voi; viêm hoặc phù sinh dục như viêm thừng tinh, viêm tinh hoàn, tràn dịch màng tinh hoàn. Trường hợp viêm bạch hạch mãn tính ở bộ phận sinh dục có thể gây nên triệu chứng bìu voi, vú voi; kèm theo là chứng đái dưỡng chấp (nước tiểu trắng đục như nước vo gạo, không lắng, đôi khi lẫn máu). Trường hợp lượng dưỡng chấp trong nước tiểu nhiều, để lâu nước tiểu có thể đông lại. Đây được xem là một trong những bệnh gây tàn phế nhiều nhất trên toàn cầu. Người bệnh không những đau đớn, mất khả năng lao động mà còn rơi vào trạng thái mặc cảm và bị người đời xa lánh.
Trên thế giới, hiện có khoảng 120 triệu người ở 73 nước đã nhiễm bệnh và hơn 1 tỷ người sống trong vùng có bệnh giun chỉ lưu hành. Ở Việt Nam, bệnh GCBH có ở nhiều địa phương, chủ yếu ở vùng châu thổ sông Hồng, với 2 loài giun chỉ là Brugia malayi và Wuchereria. Riêng Khánh Hòa, năm 1996 trong khi tiến hành điều tra bệnh sốt rét tại huyện Khánh Vĩnh, các bác sĩ thuộc Viện Sốt rét KST - CT (Bộ Y tế) và Trung tâm Phòng chống sốt rét tỉnh đã tình cờ phát hiện nhiều mẫu máu có sự hiện diện của ấu trùng giun chỉ. Đáng quan tâm là trong số các tỉnh phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào) chỉ phát hiện ấu trùng này có tại Khánh Hòa. Điều tra tại một số khu vực cho thấy, tỷ lệ người nhiễm giun chỉ thuộc vào hàng cao nhất cả nước, trong đó xã Khánh Nam 13%, Khánh Trung 9,3%, Cầu Bà 0,4%. Các năm 2002 - 2003, điều tra mở rộng của Trung tâm Phòng chống sốt rét tỉnh đã phát hiện thêm nhiều khu vực có người dân bị nhiễm ấu trùng giun chỉ là Diên Tân (Diên Khánh) 0,8%, Ninh Tây (Ninh Hòa) 10%. Trong số 5.337 người ở đủ lứa tuổi tại 6 huyện thị được xét nghiệm máu (trừ TP. Nha Trang) đã phát hiện 65 trường hợp cho kết quả dương tính (1,22%). Mật độ ấu trùng trên 60mm3 cao ở các nhóm tuổi 15 - 19, 20 - 29, 30 - 39, trong đó cao nhất là nhóm 40 - 49 với tỷ lệ mật độ ấu trùng 17,46, thậm chí tới 24 ở xã Khánh Trung (Khánh Vĩnh).
Với tính chất nguy hiểm của căn bệnh này, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra chiến lược loại trừ bệnh GCBH đến năm 2020. Việt Nam đã được chọn là 1 trong 4 nước triển khai Dự án quốc gia loại trừ bệnh GCBH, thực hiện từ năm 2002, mục tiêu đưa tỷ lệ nhiễm giun chỉ xuống dưới 0,1% dân số. Theo chương trình, toàn bộ số dân ở những vùng có người nhiễm giun chỉ được uống thuốc (Diethylcarbamazine kết hợp với Albendazole) 1 năm 1 lần, trong vòng 5 năm liên tục. Đến nay, huyện Khánh Vĩnh đã thực hiện được 2 năm với tỷ lệ dân số được uống thuốc 89% (tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới phải đạt từ trên 80%), 2 huyện khác là Ninh Hòa và Diên Khánh đang thực hiện năm đầu tiên với tỷ lệ người uống thuốc là 88,9% và 86%. Theo phác đồ điều trị, đến hết năm 2006, huyện Khánh Vĩnh sẽ hoàn thành chương trình loại trừ bệnh GCBH và 1 năm sau nữa (2007), sẽ là 2 huyện Ninh Hòa và Diên Khánh. Do đây là 3 địa phương có tỷ lệ người nhiễm giun chỉ cao nhất toàn tỉnh, nên có thể xem đến hết 2007, Khánh Hòa cơ bản loại trừ bệnh GCBH. Để đạt tiêu chuẩn loại bỏ được bệnh GCBH, tỷ lệ người nhiễm bệnh phải đạt mức 0,1%. Ông Nguyễn Khắc Duy - Trung tâm Phòng chống sốt rét, thành viên Chương trình giun sán tỉnh cho biết, chương trình phòng chống bệnh GCBH đã và đang được tiến hành nghiêm túc, kỹ lưỡng và bài bản theo đúng tiêu chí của Tổ chức Y tế thế giới. Một số trở ngại ở chỗ, nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt động của chương trình khá hạn chế; công việc đòi hỏi sâu sát, thường xuyên với địa bàn chủ yếu là vùng núi, sâu, xa trong khi lực lượng và phương tiện lại mỏng, thiếu. Ngoài ra, do căn bệnh này chưa được biết đến nhiều nên nhân dân nói chung chưa có ý thức tự giác trong việc phòng chống bệnh cũng như hợp tác với cán bộ y tế.
NGUYỄN HUÂN

