Nhà thơ Nguyên Hồ là lớp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên trưởng thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học nghệ thuật Phú Khánh. Trong sáng tác, ông được coi là "kiện tướng ca dao" suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đến mãi sau này.
Nhà thơ Nguyên Hồ là lớp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên trưởng thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học nghệ thuật Phú Khánh. Trong sáng tác, ông được coi là “kiện tướng ca dao” suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đến mãi sau này.
Năm 1991, nhà thơ Nguyên Hồ và tôi cùng đoạt giải nhì (không có giải nhất) ở cuộc thi sáng tác văn học về thiếu nhi do Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa phối hợp với Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em tỉnh phát động. Tự nhiên 2 tác giả đồng hạng nhì ở cuộc thi này lại là đồng hương Phú Yên với nhau. Từ đó tôi thân quen, quý mến và vô cùng kính trọng nhà thơ đàn anh Nguyên Hồ.
Ông tên thật là Hồ Công Hãn, sinh năm 1929 tại xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông lớn hơn tôi đúng 20 tuổi, vậy mà khi chuyện trò, ông hòa đồng như bạn bè thân thiết. Ngoài tài sáng tác thơ ca, ông còn vẽ tranh cổ động rất đẹp và hát bài chòi khỏi chê. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ông nổi lên là người sáng tác ca dao hàng đầu các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, nhất là việc ứng khẩu sáng tác, phổ biến tại chỗ. Nhiều người còn nhớ, năm 1952, giặc Pháp muốn tiêu hủy, triệt phá sự sống vùng kháng chiến. Chúng thường xuyên cho máy bay ném bom đánh phá các công trình phục vụ sản xuất của nhân dân. Nhằm động viên dân công ra sức khắc phục những hư hại tổn thất, kịp thời khôi phục sản xuất, ngay hiện trường, nhà thơ Nguyên Hồ đã ứng khẩu sáng tác và hát thành bài chòi luôn tại chỗ: Thằng Tây phá máng, phá lù/Nước mương trụt xuống căm thù trào lên. Cả công trường nhiệt liệt tán thưởng. Đối với những thanh niên chưa giác ngộ, chưa tích cực trong phong trào phục vụ kháng Pháp, nhà thơ liền ứng khẩu: Ăn chình mới biết chình tanh/Gần anh mới biết rằng anh giống chình/Nhớt xương, nhớt thịt, nhớt mình/Đả thông chẳng được, phê bình chẳng nghe/Yêu anh hổ (thẹn) với bạn bè/Em về em quyết trả chè (trà), không ưng…
Những tác phẩm chính của Nguyên Hồ đã xuất bản như: Áo rách tim vàng (truyện thơ, năm 1956); Nhắn nhủ đôi lời (tập ca dao, năm 1958); Yêu nhau xin nhớ lời nhau (tập ca dao, năm 1958); Cô gái Phú Yên (truyện thơ, năm 1963); Dân quân làng Triều (truyện thơ, năm 1965); Bài ca dâng Đảng (diễn ca); Ngọc càng mài càng sáng (diễn ca, năm 1970), Bài ca bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam (sử ca, năm 1975); Cu Tý gặp Long Vương (truyện thơ, năm 1994); Cuộc đời và trang viết (thơ văn hợp tuyển, năm 2007). |
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, ông tập kết ra Bắc, trải qua các công việc: Phó Chủ nhiệm Nhà Xuất bản Phổ thông, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thông tin. Ông vừa làm công tác quản lý, lãnh đạo, vừa sáng tác với khối lượng lớn, trong đó nhiều nhất vẫn là ca dao, truyện thơ và diễn ca. Những năm sau ngày đất nước thống nhất, ông về lại quê nhà, đảm trách chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh. Ông đã có nhiều công lao trong việc xây dựng phong trào văn học nghệ thuật tỉnh nhà và kiên trì thi pháp ca dao trong sáng tạo văn nghệ. Nói về sáng tác của ông, nhà văn Nguyễn Gia Nùng khẳng định: “… Câu thơ giàu bản sắc dân gian truyền thống, nhưng luôn luôn tươi mới” (Tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, ngày 2-7-2011). Trong cuộc đời sáng tác văn học, ông từng đạt giải ở nhiều cuộc thi, giới văn nghệ sĩ cả nước đương thời còn gọi ông là “kiện tướng ca dao”. Vậy nhưng, thi thoảng có những lão nông quê nhà gặp lại đã chào ông bằng cách đọc những câu ca dao ông từng sáng tác cách hơn nửa thế kỷ mà tác giả quên mất, làm ông cảm động và vui mừng khôn xiết. Sinh thời, nhà thơ lớn Chế Lan Viên từng nhận xét: “Nguyên Hồ là cây bút lão luyện ca dao hồi kháng chiến, nay vẫn dẻo dai và càng khởi sắc” (Tạp chí Văn Học, tháng 7-1961). Bởi thế trước đây, trong giới bạn đọc cả nước đã hình thành câu ca truyền khẩu như đóng đinh tính cách những nhà sáng tác nổi bật ở các thể loại thời bấy giờ: Thơ Tố Hữu, nhạc Văn Cao, Nguyễn Tuân tùy bút, ca dao Nguyên Hồ.
Nhà thơ Nguyên Hồ trưởng thành theo cuộc cách mạng kháng chiến chống Pháp năm 1945 ở tuổi 16; và cũng từ ấy ông bắt đầu sáng tác thơ ca. Trang viết cuộc đời Nguyên Hồ đã khép lại ở tuổi 86. Gần 70 năm cầm bút, ông luôn hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đồng thời tạo ra một miền ca dao tươi đẹp vĩnh hằng trong lòng công chúng hôm qua và còn lưu lại đến mai sau.
Nguyễn Tường Văn