11:01, 24/01/2014

Nguyễn Nhược Pháp - thi sĩ của "ngày xưa"

Tài hoa nhưng đoản mệnh, thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp (1914 - 1938) chỉ kịp để lại cho đời 1 tập thơ Ngày xưa mỏng manh với vỏn vẹn 10 bài thơ. Thế nhưng, như Hoài Thanh - Hoài Chân đã bình trong Thi nhân Việt Nam: "Thơ in ra rất ít mà được mến nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp".

Tài hoa nhưng đoản mệnh, thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp (1914 - 1938) chỉ kịp để lại cho đời 1 tập thơ Ngày xưa mỏng manh với vỏn vẹn 10 bài thơ. Thế nhưng, như Hoài Thanh - Hoài Chân đã bình trong Thi nhân Việt Nam: “Thơ in ra rất ít mà được mến nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp”.

 

Cảnh đi thuyền trên Suối Yến vào trẩy hội chùa Hương.
Cảnh đi thuyền trên Suối Yến vào trẩy hội chùa Hương.

 

 

Cách đây mấy năm, nhà sưu tập Mang Tấn Phong có tặng tôi tập thơ Ngày xưa của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp do Nhà xuất bản Cảo Thơm ấn hành năm 1966. Cuối năm, dọn dẹp tủ sách, vô tình bắt gặp tập thơ cũ, trong tôi lại vang lên những vần thơ đậm “hồn xưa đất nước” của nhà thơ tài hoa này. Chớm xuân, lật tập thơ mỏng, đọc lại Chùa Hương, Tay ngà, Sơn Tinh - Thủy Tinh..., tôi như được sống ở cả một thời xưa với những sắc màu tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh gắn liền với nét văn hóa dân tộc. 

 

Ngày xưa mở đầu bằng bài thơ Tay ngà với những câu thơ gợi nhớ đến thời Nho học còn cực thịnh: Ta ngồi bên tảng đá/Mơ lều chiếu ngày xưa/Mơ quan Nghè, quan Thám/Đi có cờ lọng đưa. Bức tranh ông quan Nghè  “vinh quy bái tổ”, mũ áo xênh xang về làng gợi nên một không khí của thời vàng son của khoa cử Hán học. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân nhận xét: “Với ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học... mà là một thời xưa gồm những sắc màu tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh”. Thì đây, ngay trong giấc mơ ông quan Nghè vinh quy bái tổ, nhà thơ đã để cho ông quan trẻ gặp hội gieo cầu tìm chồng của nàng tiểu thư khuê các: Tay vơ cầu ngũ sắc/Má quan nghè hây hây/Quân hầu reo chuyển đất/Tung cán lộng vừa quay/Trên lầu mấy thị nữ/Cùng nhau rúc rích cười/Thưa cô đừng thẹn nữa/Quan Nghè trông thấy rồi/Cúi đầu nàng tha thướt/Yêu kiều như mây qua/Mắt xanh nhìn man mác/Mỉm cười vê cành hoa. Giữa cái buổi nhố nhăng đương thời (thập niên 30 thế kỷ trước), Nguyễn Nhược Pháp nhắc lại giấc mơ “vinh quy bái tổ” dường như không chỉ có sự khát khao của cá nhân mà còn có chút gì nuối tiếc cho quá khứ vàng son, cho truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.

 

Giữa lúc các nhà thơ khác đang say sưa khai thác nỗi buồn cá nhân đến tột đỉnh, Nguyễn Nhược Pháp lại đi tìm một thời xưa với những dấu ấn đẹp đẽ, thanh tao trong tâm hồn người Việt mà Chùa Hương là bài thơ tiêu biểu. Vượt qua việc miêu tả nét đẹp truyền thống với dải yếm đào, quần lĩnh, áo the mới, nón quai thao, đôi hài cong..., Chùa Hương được nhiều người nhớ đến một ký sự du xuân gắn liền với mối tình e ấp của nàng thiếu nữ mới lớn. Câu chuyện cô gái tuổi 15 theo thầy mẹ trẩy hội chùa Hương gặp người văn nhân Tướng mạo trông phi thường/Lưng cao dài trán rộng đã thầm thương. Cũng vì thương thầm nhớ trộm nên cô gái phải giữ ý: Em đi, chàng theo sau/Em không dám đi mau/Ngại chàng chê hấp tấp/Số gian nan không giàu. Trong khi đó, chàng trai cũng bị tiếng sét ái tình ngay từ khi mới gặp nên đã tình nguyện đi theo với cái cớ “vì thương me quá mệt”. Ấy nhưng khi có cơ hội, chàng trai cũng thể hiện mình: Khi qua chùa Giải Oan/Trông thấy bức tường ngang/Chàng đưa tay lẹ bút/Thảo bài thơ liên hoàn… Vì đã thương nên khi thầy mẹ bảo ra về, cô gái khấn trời phật rất mạnh dạn, quên hết cả việc giữ ý: Ngun ngút khói hương vàng/Say trong giấc mơ màng/Em xin cầu xin Giời Phật/Sao cho em lấy chàng. Với những câu thơ ấy, dễ hiểu vì sao Hoài Thanh đã phải thốt lên: “Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoảng thấy bóng một người đang khúc khích cười”. Kết bài thơ, tác giả còn thêm dòng chữ Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau/vì không lấy được nhau, cô bé sẽ còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện như cố tình rằng, đây là cái ký sự của cô bé ngày xưa mà tác giả vô tình đọc được chứ không phải là sáng tác của nhà thơ. Cái cách làm duyên ấy không làm người đọc mất hứng, trái lại còn tăng thêm dư vị.

 

 

Nói đến chất vui tươi, hóm hỉnh của thơ Nguyễn Nhược Pháp không thể bỏ qua Sơn Tinh - Thủy Tinh, bài thơ bắt nguồn từ truyền thuyết về thời đại Hùng Vương cổ xưa. Ngày xưa khi rừng mây u ám/Sông núi còn vang um tiếng thần/Con vua Hùng Vương thứ mười tám/Mỵ Nương xinh như tiên trên trần/Mê nàng bao nhiêu người làm thơ nên 2 vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến Phong Châu xin kết duyên cùng Mỵ Nương. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Nhược Pháp, 2 chàng rể đều oai phong làm sao: …Một thần phi bạch hổ trên cạn/Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi. Vì người đẹp, một cuộc thi tài vô tiền khoáng hậu đã xảy ra: Thủy Tinh khoe thần có phép lạ/Dứt lời, tay hất chòm râu xanh/Bắt quyết hò mây to nước cả/Dậm chân rung khắp làng gần quanh-Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi/Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo/Vung tay niệm chú: Núi từng dải/Nhà lớn, đồi con lổm ngổm bò/Chạy mưa… Với Sơn Tinh - Thủy Tinh, Nguyễn Nhược Pháp đã thổi vào thơ mới một âm điệu hết sức đặc biệt không thể diễn ngâm một cách du dương, dìu dặt với tiếng đàn tiếng sáo đệm theo mà phải đọc diễn cảm như trình bày một vở kịch thơ với lời thoại mộc mạc, giản dị mà hùng tráng. Nhà thơ kết thúc câu chuyện huyền sử bằng giọng thơ hóm hỉnh: Thủy Tinh năm năm dâng nước bể/Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương/Trần gian đâu có người dai thế/Cũng bởi thần yêu nên khác thường.

 

 

Thơ của Nguyễn Nhược Pháp chưa đạt đến độ tinh tế hoàn mỹ, nếu so với nhiều tập thơ nổi tiếng của Xuân Diệu, Thế Lữ..., nhất là sự chắt lọc ngôn ngữ, thi pháp thơ ca. Tuy nhiên, thơ ông có một nét riêng, duyên ngầm không trộn lẫn mà như nhiều người nhận xét, nếu thiếu Ngày xưa văn học sử sẽ lộ ra một khoảng trống không ai thay thế được. Thơ của Nguyễn Nhược Pháp không chỉ có niềm vui, sự hóm hỉnh mà còn có cả những bài rất buồn...; thế nhưng, nhớ đến ông là người ta lại nhớ đến phong cách thơ hồn nhiên, nhí nhảnh trong sáng và dễ thương như Hoài Thanh đã nói: “Người nhìn đời như một ông già nhìn đám trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dù người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm 24 tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ”. Có nhà phê bình đã nhận xét, người ta có thể không biết Nguyễn Nhược Pháp, nhưng không thể không biết đến Chùa Hương. Đó cũng là niềm hạnh phúc của một đời thơ vậy!

 

THÀNH NGUYỄN