09:11, 17/11/2003

Qua đèo Ngang

Chỉ một bài thơ bảy chữ, tám câu, vịnh con đèo nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình của một nữ sĩ từ giữa thế kỷ XIX, nhân một lần qua đây đã thành một viên ngọc trong kho tàng thơ Việt Nam, cho đến nay không ai có thể phủ nhận. Có thể nói, mọi người Việt Nam yêu thích thơ ca, đặc biệt ở lớp người nay đã trên dưới bốn, năm mươi tuổi, không ai không biết đến bài thơ nổi tiếng này, nhiều người đã thuộc lòng, ngay từ tuổi ấu thơ.


Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Bà Huyện Thanh Quan                                                                             

Chỉ một bài thơ bảy chữ, tám câu, vịnh con đèo nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình của một nữ sĩ từ giữa thế kỷ XIX, nhân một lần qua đây đã thành một viên ngọc trong kho tàng thơ Việt Nam, cho đến nay không ai có thể phủ nhận. Có thể nói, mọi người Việt Nam yêu thích thơ ca, đặc biệt ở lớp người nay đã trên dưới bốn, năm mươi tuổi, không ai không biết đến bài thơ nổi tiếng này, nhiều người đã thuộc lòng, ngay từ tuổi ấu thơ.

Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở Hải Dương. Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, là một cô gái thông minh, xinh đẹp, lại có tâm hồn đa cảm, Nguyễn Thị Hinh làm thơ rất sớm. Năm 1819, nhân dịp cha được điều về làm giám khảo kỳ thi Hương ở Thăng Long, gia đình chuyển từ Hải Dương về ở làng Nghi Tàm, cạnh Hồ Tây. Phong cảnh nơi đây ngay từ buổi đầu đã làm say mê, rung động hồn thơ của Nguyễn Thị Hinh. “Xanh um cổ thụ tròn xoe tán - Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ”. Những câu thơ tả cảnh thiên nhiên rất mực tài hoa với tâm hồn nhạy cảm của bà ngay từ buổi đầu về với đất Thăng Long đã được rất nhiều người mến mộ. Bà kết duyên với Lưu Nghị, một chàng trai hào hoa phong nhã, gia đình cũng thuộc dòng dõi quan chức của triều Lê, rất “môn đăng, hộ đối”. Sau khi đỗ cử nhân, Lưu Nghị được bổ làm quan huyện ở Thanh Quan, nên cái tên Bà Huyện Thanh Quan được hình thành từ đây và theo bà đến suốt đời dù sau này chồng bà không còn làm quan huyện ở Thanh Quan nữa. Ông quan huyện, chồng bà luôn “yêu vì nết, trọng vì tài”, rất tâm đắc và tự hào vì có một người vợ hiền thục, tài đức như bà, nhưng trên con đường quan trường, đã có lúc ông “lâm nạn” vì mấy câu thơ của vợ. Trong thời gian chồng nghỉ việc quan, trở về sống cuộc đời bình dị ở Nghi Tàm, bà có dịp cùng chồng đi thăm thú nhiều danh lam thắng cảnh đất kinh kỳ. Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Quốc” với tâm trạng buồn man mác mà sâu lắng đến “đứt ruột” của bà trước “người xưa, cảnh cũ nay đâu…” đều viết trong thời gian này. Những bài thơ của bà được nhanh chóng lưu truyền ở Thăng Long và lan đến tận kinh đô Huế khiến nhiều người, đặc biệt là trong giới nho sĩ rất khâm phục. Rồi chồng bà được điều vào kinh đô Huế nhậm chức Bát phẩm thư lại Bộ Hình và mất khi mới 44 tuổi. Choáng váng, đau buồn vì sự mất mát quá lớn, bà đành phải đưa 4 con rời kinh đô Huế trở về lại Nghi Tàm. Trên con đường thiên lý, khi qua đèo Ngang bà đã viết bài thơ bất hủ trên đây. “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà/Cỏ cây chen đá, lá chen hoa/Lom khóm dưới núi tiều vài chú/Lác đác bên sông rợ mấy nhà” . Chỉ là mấy câu thơ tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng. “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia/Dừng chân đứng lại: trời, non, nước/Một mảnh tình riêng ta với ta”. Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao chon von, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi… Nghe nói, sau khi tức cảnh làm xong bài thơ ngay tại đèo Ngang, bà đã khóc rất nhiều. Nhưng bà không thể hình dung ra bài thơ lại có sức sống lạ kỳ và lâu bền đến thế với non sông, đất nước. Trong những ngày chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đánh phá ra miền Bắc, tôi đã nhiều lần cùng các chiến sĩ lái xe, bộ đội qua lại đèo Ngang trong đêm, hầu như lần nào mọi người cũng nhắc tới bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan và thấy con đèo bỗng trở nên thiêng liêng, lung linh hồn nước.

Hơn một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan ra đời. Bài thơ vẫn được yêu thích và truyền qua nhiều thế hệ, trở thành một di sản quý báu, một “thiên nhiên thứ hai” tạo nên bằng thơ làm đẹp thêm đèo Ngang. Từ đó đến nay đã có nhiều người, trong đó có cả những nhà thơ nổi tiếng tiếp tục làm thơ về đèo Ngang nhưng lạ thay, tất cả dường như đều bất lực, chưa ai vượt được bài thơ của Bà Huyện và không được người đọc yêu thích, truyền tụng như bài thơ của bà.

NGUYỄN GIA NÙNG