Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh tại làng Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Làm thơ khá sớm, năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” dự thi và được giải thưởng của Tự lực Văn đoàn. Từ đó ông liên tiếp có thơ in trên các báo và nhanh chóng được bạn đọc chú ý và yêu mến.
Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh tại làng Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Làm thơ khá sớm, năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” dự thi và được giải thưởng của Tự lực Văn đoàn. Từ đó ông liên tiếp có thơ in trên các báo và nhanh chóng được bạn đọc chú ý và yêu mến. Trong khi các thi sĩ thơ mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây thì Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng, ý nhị mà mộc mạc mang đậm nét ca dao, tục ngữ. Thơ ông, do đó, rất được nhiều người yêu thích. Không phải ngẫu nhiên mà người cùng thời gọi ông là “Thi sĩ nhà quê”. Nguyễn Bính có những câu thơ giản dị, cái giản dị đáng thèm muốn của một nhà thơ đích thực. Những câu thơ ấy tạo dựng một Nguyễn Bính riêng biệt trên thi đàn. Cái đẹp của thơ ông chính là sự giản dị, sự giản dị đó ông học được của người thầy lớn là nhân dân, mà cái gốc của dân tộc Việt là cái gốc của nền văn minh lúa nước. Những bài thơ của Nguyễn Bính có một dáng hình riêng mà cho đến nay nhìn nhận lại có thể nói rằng chỉ Nguyễn Bính mới có được.
Nguyễn Bính phải nhà quê lắm, chân quê lắm mới viết được những câu thơ: Nhà em có một giàn giầu/Nhà tôi có một hàng cau liên phòng/Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? (Tương tư). Những câu thơ từ chính cuộc đời mình, một cuộc đời nơi làng quê Việt Nam mà ông nhìn thấy qua bản chất của cuộc sống - cuộc sống dân dã mà ông yêu và đắm chìm trong đó. Đố ai viết được về cái tình của cô gái quê e ấp mà táo bạo, rụt rè mà mãnh liệt như ông: Em nghe họ nói mong manh/Hình như họ biết… chúng mình với nhau (Chờ nhau). Nguyễn Bính đã hóa thân vào cô gái quê để thể hiện một cái tình quê e ấp, bẽn lẽn và trong trắng. Không dàn dựng, không bố trí, thơ nói với ta bằng tình cảm thôn dã có từ ngàn năm trước của các cô gái Việt. Nếu nhà thơ không tiếp nhận văn hóa dân gian thì không thể có những câu thơ giản dị và đẹp đến như thế. Trong sáng tác của ông có nhiều bài thơ, câu thơ hay: Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u cùng với chúng mình chân quê (Chân quê); Đêm nay mới thật là đêm/Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè (Thời trước); Anh đi đấy, anh về đâu?/Cánh buồn nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm (Không đề). Những câu thơ đạt tới vẻ đẹp tự nhiên của đời sống chắc chắn không phải do sự thông minh hay kiến thức quyết định, mà do tài năng bẩm sinh vốn có của Nguyễn Bính.
Còn ai hơn ông trong thơ ca trước cách mạng nói về thân phận của người đàn bà ở nông thôn, không phải là nông thôn lãng mạn sau lũy tre xanh, với hoa xoan nở tím, trời rắc mưa Xuân với tiếng trống chèo mà nông thôn trước cách mạng tủi cực và đầy nước mắt: Em ơi em ở lại nhà/Vườn dâu em đốn mẹ già em thương/Mẹ già một nắng hai sương/Chị đi một bước trăm đường xót xa. Bài thơ này đã trở thành những bài hát ru con, ru cháu ở nhiều làng quê Việt Nam.
Nhà thơ mồ côi cha mẹ từ lúc 3 tháng tuổi, ông không có cái may mắn biết được tình mẹ mà lại có thể viết được những câu thơ đắng lòng rưng rưng để nói về nỗi lòng của người mẹ khi con gái đi lấy chồng xa: Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc/Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi. Cái khóc thầm của người mẹ, người chị, những giọt nước mắt lặng lẽ chảy trong lòng đó nếu không phải ở thân phận người đàn bà thì đố mà biết được. Nguyễn Bính đã diễn tả được chính là nhờ sự hóa thân của ông. Những giậu mùng tơi, giăng sáng, vườn chè, trống chèo, hoa xoan, hoa bưởi, hoa cam, hoa chanh, cánh buồm nâu, vườn cam… tất cả vào thơ Nguyễn Bính một cách trữ tình duyên dáng như ca dao. Chắc chắn chưa có nhà thơ nào dám dùng những mã hiện thực như: ao bèo, con lợn, giàn giầu, giếng thơi… để mà diễn tả nỗi buồn, nỗi mất mát của tình yêu trong tâm hồn người Việt Nam hiện đại. Nguyễn Bính đã dùng nó để viết những câu thơ mở rộng cả thời gian và không gian của thi pháp thơ trữ tình hiện đại: Lợn không nuôi đặc ao bèo/Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn/Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.
Ta thử so sánh một bài ca dao quen thuộc với thơ Nguyễn Bính để thấy cái tài của nhà thơ đất thành Nam này: Trèo lên cây bưởi hái hoa/Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/Em đã có chồng anh tiếc lắm thay (Ca dao). Từ ngày cô đi lấy chồng/Gớm sao có một quãng đồng mà xa/Bờ rào cây bưởi không hoa/Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo (Qua nhà). Nguyễn Bính đã có một vị trí riêng trong đời sống văn học dân tộc. Chùm thơ: Qua nhà, Chân quê, Đêm cuối cùng, Thời trước, Mưa xuân, Lòng mẹ, Chờ nhau, Tương tư, Lỡ bước sang ngang… là những nét đẹp trong bức tranh quê trên thi đàn thơ mới. Về điều này, nhà phê bình Hoài Thanh đã chỉ ra rất đúng: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náu trong lòng ta”.
Bằng sự hòa nhập giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa thi ca và đời sống văn hóa dân dã, Nguyễn Bính đã mang lại cho công chúng những bài thơ như chính bản thân của đời sống. Điều đó lý giải vì sao độc giả Việt Nam từ bậc trí giả đến người ít chữ, từ kẻ thành phố đến người ở nông thôn đều dễ dàng tiếp nhận và yêu mến thơ ông.
ANH TUẤN
