Đoàn họa sĩ đi thực tế sáng tác ở Khánh Sơn vừa qua có 8 người. Trong số đó có họa sĩ Đoàn Minh Long, họa sĩ Thanh Hồ và tôi là đã có đôi lần lên công tác ở Khánh Sơn, số còn lại là những người lần đầu tiên đặt chân lên Khánh Sơn, miền đất địa đầu của tỉnh Khánh Hòa. Riêng tôi đã có hơn 2 năm công tác ở Khánh Sơn ngay từ ngày đầu tỉnh Khánh Hòa được giải phóng (2-4-1975), nhưng hiểu biết về Khánh Sơn cũng còn rất ít. Có nhiều bản làng, nhiều địa danh như Sơn Lâm, Thành Sơn, thác Tà Gụ… tôi chưa hề đặt chân tới.
Ghi chép của XUÂN TUYNH
|
| Thác Tà Gụ, Khánh Sơn. |
Đoàn họa sĩ đi thực tế sáng tác ở Khánh Sơn vừa qua có 8 người. Trong số đó có họa sĩ Đoàn Minh Long, họa sĩ Thanh Hồ và tôi là đã có đôi lần lên công tác ở Khánh Sơn, số còn lại là những người lần đầu tiên đặt chân lên Khánh Sơn, miền đất địa đầu của tỉnh Khánh Hòa. Riêng tôi đã có hơn 2 năm công tác ở Khánh Sơn ngay từ ngày đầu tỉnh Khánh Hòa được giải phóng (2-4-1975), nhưng hiểu biết về Khánh Sơn cũng còn rất ít. Có nhiều bản làng, nhiều địa danh như Sơn Lâm, Thành Sơn, thác Tà Gụ… tôi chưa hề đặt chân tới.
Sau khi nghe anh Ngô Hữu Giác, Phó Chủ tịch UBND huyện và anh Nguyễn Phước Khiêm, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện giới thiệu đôi nét về tiềm năng phát triển của Khánh Sơn, điều làm chúng tôi thích thú nhất đó là thác Tà Gụ, một điểm du lịch lý tưởng của huyện đang còn ở dạng hoang sơ, ai cũng thích thú muốn được đến đó ngay.
Theo kế hoạch, hôm sau chúng tôi đi thăm thác Tà Gụ, sau đó sẽ đi Sơn Lâm và Thành Sơn, 2 xã xa xôi nhất của huyện. Nhưng sáng thức dậy thấy sương mù dày đặc phủ kín núi đồi, do đó phải đi Sơn Lâm và Thành Sơn trước, chờ cho sương mù tan mới về Tà Gụ được.
10 giờ. Mặt trời lên cao. Sương tan, chúng tôi chia tay với Thành Sơn phóng xe về Tà Gụ. Đoạn đường từ Thành Sơn về Tà Gụ dài khoảng 15km, đường mới làm trải nhựa mịn màng nên chỉ sau 20 phút chúng tôi đã có mặt ở chân thác. Xe vừa dừng, chúng tôi ào xuống để cả giày dép lội xuống suối rửa mặt cho mát mẻ. Mọi người ngơ ngác hỏi nhau thác đâu? Trả lời thắc mắc của chúng tôi, anh Mấu Quốc Tiến, cán bộ bảo tàng và anh Bo Bo Xuân Thoại, cán bộ nếp sống văn hóa của huyện dẫn đoàn đi thực tế lên tiếng:
- Từ đây lên tới chân thác còn khoảng 200m nữa, sau đó leo chừng 200m núi đá mới lên tới đỉnh thác. Vách đá rêu trơn khó đi lắm. Các anh phải đi khéo léo kẻo té.
Rửa mặt xong rồi nghỉ chốc lát, chúng tôi theo anh Tiến và anh Thoại lên thác. Nói là đi nhưng đúng ra là nhảy, bởi đường lên thác lổn nhổn những tảng đá lớn nhỏ nên rất khó đi. Nếu giày dép không tốt dễ bị trượt chân té xuống suối. Đi được khoảng 100m ai cũng mệt nhoài. Họa sĩ Trần Hòa Ân và họa sĩ Thanh Hồ lớn tuổi, sức khỏe yếu phải bỏ cuộc. Còn lại 6 người chúng tôi tiếp tục leo. Lên tới chân thác, 5 người dừng lại lấy giấy bút ra vẽ. Riêng chỉ có tôi và hai anh Tiến, Thoại leo tiếp lên đỉnh thác. Từ chân thác lên tới đỉnh toàn những vách đá cheo leo có chỗ phải bò mới qua được. Anh Tiến quay lại nói to: “Khó đi đấy nhưng lên được tới đỉnh sẽ rất thú vị”. Quả thực vậy, khi leo lên tới đỉnh thác Tà Gụ nằm ngả lưng xuống phiến đá to bằng phẳng mát lạnh, ngước mắt nhìn bầu trời cao xanh tôi thấy thích thú vô cùng. Nằm nghỉ một hơi dài cho lại sức, tôi đứng lên đưa tay lên miệng hú to. Tiếng hú vọng vào trong hang đá dội lại thành 3, 4 tiếng ngân dài, vang xa.
Thác Tà Gụ đẹp thật, hùng vĩ thật. Tôi sững sờ thốt lên những lời nói đó với anh Tiến. Là người lính năm xưa từng chiến đấu ở suốt dải Trường Sơn, qua nhiều thác ghềnh, quả thật hiếm thấy có dòng thác nào đẹp như thác Tà Gụ. Nếu đứng ở chân thác nhìn lên thấy 2 dòng nước trắng xóa đổ xuống giống như một thiếu nữ đang đứng cúi đầu xõa mái tóc dài hóng gió. Còn từ trên đỉnh nhìn xuống, thác Tà Gụ giống như hai chiếc ngà voi to, khỏe, trắng muốt trút dài xuống lòng suối. Có hai câu chuyện huyền thoại kể về thác Tà Gụ và cả hai nghe kể đều thấy cuốn hút và có lý. Theo anh Tiến, từ thuở nhỏ anh đã được nghe các già làng kể rằng: Ngày xửa, ngày xưa khu rừng này có rất nhiều trăn, có con to như cây Tô Hạp 100 tuổi. Một buổi sáng mùa khô, trời mát mẻ, một bầy trăn từ dưới chân núi bò lên đỉnh kiếm mồi, chúng gặp một con voi lạc mẹ đứng ngơ ngác, một con trăn đầu đàn to khỏe lao tới quật ngã con voi. Cả hai con vật vùng vẫy làm gãy nát cây cối, cuối cùng cả hai rớt xuống vực thẳm, thân hình nát vụn. Voi mẹ mất con đi tìm nhìn thấy con mình đã chết nằm dưới vực sâu, voi mẹ thương tiếc con đứng trên đỉnh núi cao khóc than suốt đêm ngày rồi bỗng dưng hóa đá. Hai dòng nước mắt của voi mẹ hóa thành hai dòng thác.
Câu chuyện thứ hai theo anh Nguyễn Quốc Thịnh, Phó Chủ tịch kể lại rằng: Từ thời xa xưa các cụ truyền lại, Tà Gụ là một dòng suối trong, tinh khiết, hàng năm vào mùa xuân cây cối xanh tốt nở đầy hoa trái, chim muông tụ hội về hót vang rừng, khí trời ấm áp, Tiên nữ ở trên trời bay xuống tắm dưới suối Tà Gụ rồi lên đỉnh núi cao xõa tóc dài hóng gió. Một lần có một Tiên nữ xuống tắm rồi lên đỉnh núi chải tóc, bầy chim muông thấy Tiên nữ đẹp quá rủ nhau bay tới múa hát líu lo. Nàng Tiên thích thú vui đùa với chim muông quên mất thời hạn thiên đình cho phép xuống trần. Khi nhớ ra vội bay về trời thì cổng trời đã khép. Nàng Tiên nọ đành trở lại, sống mãi dưới trần gian, rồi hóa thành thác Tà Gụ. Mái tóc nàng là hai dòng nước chảy. Từ đó thác Tà Gụ còn có tên là thác Nàng Tiên.
Đó là những câu chuyện huyền thoại nói về thác Tà Gụ. Riêng chuyện này là có thực. Thác Tà Gụ giống như một vị thần báo bão lũ của huyện Khánh Sơn. Anh Tiến kể, hàng năm vào mùa mưa, dân trong khắp bản làng của vùng núi Khánh Sơn, hễ đêm khuya nghe thấy những tiếng hú kéo dài liên tiếp như tiếng thú gầm phát ra từ hướng Tà Gụ ắt sẽ có bão lũ đổ về. Nghe thấy những tiếng đó dân chúng trong khắp bản làng lo mà ứng phó với bão lụt. Những tiếng hú đó do đâu mà có? Tôi hỏi anh Tiến. Anh Tiến đưa tay lên gãi đầu rồi cười khà: - Cái đó lý giải ra sao thì mình chịu không biết được. Cả đồng bào Raglai ở đây cũng chịu thua. Chỉ biết vào mùa mưa là nghe thấy tiếng hú đó của Tà Gụ.
Tiếng hú đó do đâu mà có? Câu hỏi này dành các nhà thiên văn học trả lời. Là người viết văn lên với Tà Gụ, hôm nay tôi chỉ biết một điều là thác Tà Gụ rất đẹp, nên thơ, thích hợp cho mọi lứa tuổi. Ở tuổi trung niên trở lên, lên Tà Gụ sẽ thấy thư giãn, ngồi trên những tảng đá lớn bằng phẳng bên dòng suối ngắm những cây Tô Hạp to khỏe, cao vút; nghe tiếng chim hót líu lo và uống ruợu cần vịnh thơ thì tuyệt vời. Còn đối với tuổi trẻ thích ấn tượng mạnh thì leo lên đỉnh thác thả hồn theo mây gió trong không khí mát lạnh ở độ cao hơn 500m so với mặt biển thì hẳn có nhiều điều thú vị.
Gần 3 giờ đồng hồ ở Tà Gụ, với chúng tôi, vô cùng ngắn ngủi. Cả đoàn ai cũng muốn nấn ná thêm chút ít thời gian để chụp ảnh, quay phim và vẽ. Riêng tôi, ít giờ lên thăm thác Tà Gụ, được sống trong một khu rừng già nguyên sinh, được trèo đèo lội suối gợi lại trong tôi rất nhiều kỷ niệm về những năm đánh Mỹ cùng đồng đội sống ở Trường Sơn. Những hàng cây, vách đá, bờ lau, những con đường mòn như những người bạn thân thiết nói với tôi đừng bao giờ quên về những năm tháng chiến tranh, đừng bao giờ quên rừng núi đã chở che ta, nuôi ta đánh giặc và giờ đây giúp ích rất nhiều cho cuộc sống của chúng ta.
Chia tay với Tà Gụ, chia tay với Khánh Sơn, chúng tôi ai cũng thầm hẹn sẽ có ngày trở lại Tà Gụ, trở lại Khánh Sơn, một miền đất nhiều tiềm năng và hào phóng. Chúng tôi nhớ câu nói của anh Nguyễn Quốc Thịnh, Phó Chủ tịch UBND huyện: “Khánh Sơn là nàng công chúa đang còn ngủ quên, chờ chàng hoàng tử lên đánh thức”.
X.T
