12:12, 30/12/2011

Xuất khẩu thủy sản năm 2011: Về đích nhưng vẫn lo

Năm 2011, tuy chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh Khánh Hòa vẫn đạt ngưỡng 310 triệu USD, tăng 3% so với năm 2010.

Năm 2011, tuy chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản (XKTS) của tỉnh Khánh Hòa vẫn đạt ngưỡng 310 triệu USD, tăng 3% so với năm 2010. Theo kế hoạch, XKTS Khánh Hòa năm 2012 sẽ phấn đấu đạt từ 320 - 330 triệu USD. Tuy nhiên, do thiếu nguyên liệu sản xuất, chi phí đầu vào tăng cao, lực lượng lao động không ổn định, dự báo XKTS của các doanh nghiệp (DN) ở Khánh Hòa trong năm 2012 sẽ gặp không ít khó khăn.

Doanh nghiệp vượt khó

So với nhiều tỉnh duyên hải miền Trung khác, Khánh Hòa có thuận lợi về nhiều mặt như: cảng, bến cá, khu hậu cần nghề cá… - là địa điểm tập trung khá nhiều DN, nhà máy thu mua, chế biến XKTS. Hiện toàn tỉnh có 44 DN tham gia XKTS được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn ngành. Trước năm 2000, sản phẩm của các DN chỉ xuất hiện ở các thị trường truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Úc..., đến nay đã có mặt ở thị trường châu Âu và Mỹ, Nga… Sản phẩm thủy sản xuất khẩu của các DN Khánh Hòa đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh cao, tạo dựng được uy tín trên thị trường thế giới. Nhờ được đầu tư đúng hướng, XKTS ở Khánh Hòa đang trở thành một ngành công nghiệp hiện đại và phát triển tương đối ổn định.

Do thiếu nguyên liệu, nhiều nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu phải hoạt động cầm chừng
Do thiếu nguyên liệu, nhiều nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu phải hoạt động cầm chừng

Bên cạnh việc năng động và linh hoạt trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, các DN luôn tìm cơ hội và đáp ứng mọi đòi hỏi của thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, sẵn sàng thử nghiệm những đơn đặt hàng mới, tích cực tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, xúc tiến việc mua bán với những thị trường tiềm năng. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các DN tham gia thủy sản xuất khẩu không ngừng đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ nhiều năm nay, Khánh Hòa luôn là tỉnh nằm trong tốp 4 tỉnh đứng đầu cả nước về XKTS. Đến thời điểm này, những sản phẩm thủy sản xuất khẩu của các DN Khánh Hòa đã có mặt ở gần 160 thị trường trên toàn cầu. Lực lượng chế biến mạnh đã tạo điều kiện tốt về tiêu thụ sản phẩm từ nuôi trồng và khai thác, nhờ đó kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng ổn định, năm 2011 đạt 310 triệu USD, chiếm 54% so với kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Tổng sản lượng hàng thủy sản chế biến trong năm 2011 xuất đi các nước EU, Hàn Quốc, Trung Quốc... là 60.000 tấn/năm.

Còn đó những khó khăn

Những năm gần đây, ngư trường đánh bắt thủy sản của ngư dân đang có dấu hiệu cạn kiệt nguồn hải sản, sản lượng đánh bắt giảm đáng kể. Bên cạnh đó, nhiều DN chế biến trong tỉnh đang phải cạnh tranh gay gắt với thương lái Trung Quốc trong việc thu mua nguyên liệu thủy sản ngay tại địa phương. Thực trạng này khiến các DN trong tỉnh phải đẩy giá thu mua lên, trong khi giá xuất gần như không tăng, dẫn đến lợi nhuận giảm. Bên cạnh đó, chi phí đầu vào tăng nhanh khiến nhiều DN XKTS gặp khó khăn.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ đầu năm đến nay, các DN chế biến chỉ hoạt động từ 50-60% công suất do thiếu nguyên liệu. Nhằm khắc phục tình trạng này, nhiều DN trong tỉnh đã chủ động nhập nguồn nguyên liệu từ nước ngoài để ổn định sản xuất; mức giá nhập khẩu luôn cao hơn từ 5-10% so với giá trong nước. Theo đánh giá của các DN, việc nhập khẩu nguyên liệu tuy giá cao nhưng bảo đảm chất lượng, giúp DN chủ động sản xuất, ổn định thị trường và giữ được khách hàng truyền thống. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp ổn định lâu dài. Hơn nữa, việc nhập khẩu đòi hỏi DN phải có tiềm lực tài chính mạnh để thu mua nguồn nguyên liệu dự trữ và đầu tư kho lạnh bảo quản sản phẩm. Mặt khác, các DN này phải có nguồn khách hàng và thị trường tiêu thụ ổn định, tính toán hợp lý thì mới ổn định được tình hình sản xuất kinh doanh. Theo tính toán của các DN, sản xuất hàng tinh chế có thể tiết kiệm 50% lượng nguyên liệu, giá bán cao hơn từ 30-40% nên lợi nhuận thu về cao hơn so với sản xuất thô. Bên cạnh lợi nhuận, việc sản xuất hàng tinh chế hạn chế được lượng chất thải nên giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, để sản xuất hàng thủy sản tinh chế đòi hỏi DN phải bỏ vốn đầu tư các loại công nghệ máy móc, thiết bị như: kho trữ hàng, máy cấp đông... Chính vì vậy, nhiều DN có tiềm lực tài chính hạn chế không đủ năng lực đầu tư, chấp nhận sản xuất sản phẩm thô, giá trị không cao.

Nhiều DN cho rằng, cùng với việc đẩy mạnh sản xuất mặt hàng tinh chế, cần chủ động gắn kết giữa chế biến với xây dựng vùng nguyên liệu, đẩy mạnh liên kết theo hợp đồng giữa nhà máy với người khai thác, nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, để xây dựng được mạng lưới cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản là vấn đề có tính chiến lược lâu dài. Thực tế lâu nay cũng có một số DN lớn trực tiếp đứng ra thu mua và ký hợp đồng với ngư dân tiêu thụ sản phẩm, nhưng việc này không tồn tại được lâu vì nảy sinh những vấn đề bấp cập. Do vậy, để thực hiện được việc này, cần sự vào cuộc của ngành chức năng, cụ thể là ngành Nông nghiệp và các tổ chức hiệp hội nhằm gắn kết các bên, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm như lâu nay.

Để giải quyết tình trạng thiếu nguyên liệu hiện nay, Nhà nước cần đẩy mạnh hợp tác mở rộng ngư trường khai thác cho ngư dân, hỗ trợ ngư dân về kỹ thuật bảo quản nguyên liệu; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có giải pháp hạn chế các loại nghề khai thác làm tổn hại đến ngư trường, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án nuôi trồng thủy sản tập trung, có kế hoạch cụ thể nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng nuôi. Mặt khác cần hình thành mối liên kết giữa các DN với ngư dân và người nuôi trồng thủy sản bằng cách triển khai hình thức bao tiêu sản phẩm trong và ngoài tỉnh cho ngư dân; đa dạng hóa sản phẩm theo hướng tăng các mặt hàng tinh chế, sử dụng ít nguyên liệu và sản phẩm ngày càng có giá trị gia tăng cao…

ANH TUẤN