Con tôi năm nay học lớp 4. Ở cấp tiểu học cháu có một cuốn tập gọi là: chuẩn bị bài (CBB). Vở CBB ngoài việc dùng để soạn bài còn có thể coi như một cuốn sổ tay...
|
Con tôi năm nay học lớp 4. Ở cấp tiểu học cháu có một cuốn tập gọi là: chuẩn bị bài (CBB). Vở CBB ngoài việc dùng để soạn bài còn có thể coi như một cuốn sổ tay của các cháu, trong đó chủ yếu cô giáo cho ghi những công việc cần chuẩn bị ở nhà trước khi đến lớp như: học bài cũ (học bài gì), đọc trước bài mới (đọc bài nào), làm bài tập toán, tiếng Việt, chuẩn bị đồ dùng học tập… Trong vở CBB còn ghi thêm việc nhắc bố mẹ đi họp, đón mấy giờ, các khoản tiền phát sinh cần phải nộp, ngày nào nghỉ học hay học thêm, học bù… Nói chung, ngoài việc làm nhiệm vụ “chuyên môn”, vở CBB còn là đầu mối truyền đạt thông tin giữa cô giáo và phụ huynh.
Để hướng dẫn con học, mỗi ngày phụ huynh chỉ cần nhìn vào vở CBB là có thể chuẩn bị đầy đủ cho các cháu đến trường như: kiểm tra xem đã thuộc bài cũ chưa, đem đủ sách vở đồ dùng học tập không, có đi họp gì không… mà có thể không phải coi đến thời khóa biểu (TKB).
Từ lớp 1 đến lớp 3, hàng ngày tôi chỉ căn cứ vào vở CBB và hướng dẫn cho cháu làm bài tập, học bài cũ, chuẩn bị bài mới… Đầu năm lớp 4 cháu cũng có vở CBB, nhưng có lẽ năm nay cháu đã lớn, đã biết tư duy nên chẳng thấy cô giáo cho ghi gì vào đó cả mà chỉ dặn miệng. Những lời dặn miệng thường mau quên, chẳng những cháu “hẫng” mà tôi cũng thật lúng túng. Mỗi ngày tôi phải lật tìm TKB, đối chiếu bài cũ, hướng dẫn cháu soạn bài mới, hỏi cặn kẽ cháu: “Cô còn dặn gì thêm nữa không?”… Đến ngày thứ sáu của tuần đầu tiên, tôi thấy trong vở CBB của cháu có ghi những dòng nhắn nhủ cho ngày thứ hai. Không biết vì cô giáo sợ học trò qua 2 ngày nghỉ quên không chuẩn bị bài hay vì do một tuần “thử nghiệm” không ghi vở CBB mà nhiều khi các cháu bị thiếu sách vở lên lớp. Và, bắt đầu tuần thứ hai, tôi thấy vở CBB đã được ghi đầy đủ những lời nhắn nhủ vào đó để các cháu chuẩn bị như những năm trước.
Ở một phương diện nào đó, những lời dặn dò trong vở CBB đã giúp học sinh (và cả phụ huynh) tiết kiệm thì giờ học ở nhà, chỉ cần nhìn vào đó là có thể chuẩn bị đầy đủ cho ngày mai đến lớp; cả ba phía: cô giáo, học sinh và phụ huynh đều cảm thấy tiện lợi.
Tuy nhiên, nhìn rộng vấn đề hơn một chút chúng ta sẽ thấy vở CBB và đề cương thi gần giống nhau. Học sinh đã ỷ lại và không biết tự độc lập suy nghĩ ngay từ những năm học đầu tiên. Gần đến kỳ thi không chỉ học sinh mong chờ đề cương mà ngay cả phụ huynh cũng nôn nóng: “Có đề cương thi chưa con?”. Từ đó hình thành ở các em thói quen thụ động trong học tập, ít chịu khó suy nghĩ, nghiên cứu bài học và làm hết tất cả những bài tập trong sách giáo khoa, đọc thêm sách tham khảo… Đa số các em chỉ biết làm bài tập cô giáo ra, còn các bài tập khác trong sách đôi khi chẳng hề đọc đến. Sự năng động, sáng tạo và linh hoạt của các em bị giảm. Và như thế, từ việc nhà đến việc học, các cháu đều phải dựa dẫm vào cha mẹ và… vở CBB hay đề cương thi.
Không làm thay con mình, cần tập cho các cháu “tự lực cánh sinh”, tự giác trong học tập là một vấn đề rất khó, nếu như từ những năm tiểu học học sinh không biết cách chủ động trong học tập mà luôn luôn phải dựa dẫm vào vở CBB và suốt 12 năm học đều phải trông chờ vào đề cương thi.
Không thể đổ lỗi cho vở CBB vì đó là thông điệp mà cô giáo nhắc nhở học trò, gửi gắm đến phụ huynh. Thế nhưng, nếu như ngay từ những năm học đầu tiên, giáo viên tập cho học sinh tính tự giác trong học tập, không ỷ lại vào vở CBB, hướng dẫn học sinh phải học như thế nào, cách tự học, tự nghiên cứu… thì đến kỳ thi chẳng cần đề cương các cháu cũng sẽ nắm hết được chương trình để chuẩn bị thi.
NAM XUÂN
