Khiếu nại, tố cáo (KNTC) không chỉ đơn thuần là quyền cơ bản của công dân. KNTC còn thể hiện bản chất của chế độ xã hội, của Nhà nước pháp quyền: Mọi người đều phải hành động theo pháp luật. Công dân có quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức và các cơ quan Nhà nước.
Khiếu nại, tố cáo (KNTC) không chỉ đơn thuần là quyền cơ bản của công dân. KNTC còn thể hiện bản chất của chế độ xã hội, của Nhà nước pháp quyền: Mọi người đều phải hành động theo pháp luật. Công dân có quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức và các cơ quan Nhà nước.
Điều 74 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”…
Để cụ thể hóa nội dung trên của Hiến pháp, ngày 2-12-1998, Quốc hội đã ban hành Luật KNTC. Chính phủ ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Sau hơn 4 năm đi vào cuộc sống, Pháp luật về KNTC đã phát huy tác dụng to lớn trong việc xây dựng đời sống dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp công dân thực hiện quyền KNTC không đúng quy định của pháp luật. Theo yêu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin giới thiệu hai nội dung quan trọng trong pháp luật về KNTC, đó là phân biệt KN với TC và việc ủy quyền trong KN.
1. Sự khác nhau giữa KN và TC:
- “Khiếu nại” là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật KNTC quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Khoản 1, Điều 2 Luật KNTC).
- “Tố cáo” là việc công dân theo thủ tục do Luật KNTC quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức (Khoản 2, Điều 2 Luật KNTC).
Theo quy định trên đây, giữa KN và TC có những điểm khác nhau rất cơ bản sau đây:
a) Ai có quyền KN, ai có quyền TC? Người KN có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức. Trong khi người TC chỉ có thể là cá nhân. Các cơ quan, tổ chức không thực hiện quyền này.
b) Đối tượng của KN, TC là gì? Đối tượng của KN là QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật liên quan trực tiếp đến người KN, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người KN. Điều này có nghĩa là không được KN giúp, KN hộ. Trong khi đối tượng của TC là bất kỳ hành vi trái pháp luật nào, liên quan trực tiếp hoặc không trực tiếp đến lợi ích của người TC.
c) Mục đích của KN là nhằm khôi phục lại quyền lợi hợp pháp của người KN. Mục đích của TC rộng hơn, nhằm phát giác, ngăn chặn, xử lý đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật.
d) Về thẩm quyền giải quyết cũng khác nhau. Người giải quyết KN lần đầu phải là người đã ra QĐHC hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có HVHC KN. Trong khi người giải quyết TC lại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
đ) Quá trình, thủ tục giải quyết KN và TC cũng không giống nhau. Người KN có quyền khởi kiện vụ án hành chính khi không được giải quyết KN hoặc được giải quyết nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết KN lần đầu. Ở người TC không có quyền này.
Phân biệt những điểm khác nhau cơ bản trên đây để thực hiện quyền KN và quyền TC cho đúng pháp luật thì quyền của người KN, người TC mới được pháp luật bảo vệ.
2. Việc ủy quyền trong KN hành chính không giống như việc ủy quyền trong giao dịch dân sự. Người KN hành chính có thể tự mình thực hiện quyền KN, cũng có thể thông qua người đại diện. Có hai loại đại diện. Đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật trong các trường hợp công dân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự; khi cơ quan, tổ chức thực hiện quyền KN thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức ấy là người đại diện… Còn đại diện theo ủy quyền trong trường hợp “người ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể tự mình KN thì có thể ủy quyền cho người đại diện là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột đã thành niên để thực hiện việc KN”.
Pháp luật về KN cũng quy định rõ “Việc ủy quyền KN phải lập thành văn bản có xác nhận của UBND cấp xã nơi người ủy quyền hoặc nơi người được ủy quyền cư trú” (Điều 2 Nghị định 67 ngày 7-8-1999 của Chính phủ).
Như vậy, người được ủy quyền trong KN hành chính hẹp hơn đối tượng được ủy quyền trong tố tụng dân sự. Đương sự, người đại diện đương sự có thể làm giấy ủy quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật (Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự).
Luật gia TRỊNH PHÚ HẢI
