10:01, 19/01/2018

Vụ làm giả chứng minh nhân dân để vay vốn: Đủ căn cứ buộc tội lừa đảo

Vì cần vay vốn làm ăn nhưng không có tài sản thế chấp, các đối tượng đã nhờ người khác làm giả giấy chứng minh nhân dân để chiếm đoạt tiền của ngân hàng…

Vì cần vay vốn làm ăn nhưng không có tài sản thế chấp, các đối tượng đã nhờ người khác làm giả giấy chứng minh nhân dân (CMND) để chiếm đoạt tiền của ngân hàng…


Tháng 4-2009, Nguyễn Thị Huyền C. và Nguyễn Thị Thanh Đ. nhờ Nguyễn Văn A. (là em ruột của C. đã chết vào tháng 7-2010) làm CMND với tên Nguyễn Văn H. (cũng là em ruột của C.) và Trần Thị Thanh Ch. (bạn của A.) làm CMND mang tên Hoàng Thị Ngọc P. (vợ của anh Nguyễn Văn H.) cho phù hợp với sổ đỏ mang tên hai vợ chồng này (do C. đang giữ sổ đỏ của họ) để tiến hành các thủ tục vay tiền của ngân hàng.


Khi có CMND giả, Đ. cùng A. và Ch. đem sổ đỏ của vợ chồng anh H. đến Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á Chi nhánh Nha Trang (Ngân hàng Nam Á) ký hợp đồng vay vốn có thế chấp tài sản và được Ngân hàng Nam Á cho vay số tiền 200 triệu đồng. Sau khi nhận tiền, C. và Đ. mỗi người giữ 100 triệu đồng.


Tính đến ngày 25-7-2011, C. và Đ. trả cho ngân hàng được 73 triệu đồng (tiền gốc và lãi) còn lại số tiền 172 triệu đồng (gồm các khoản tiền gốc, tiền lãi, lãi quá hạn, tiền phạt chậm trả), C. và Đ. không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ngày 28-8-2014, gia đình của C. và Đ. đã thanh toán cho Ngân hàng Nam Á số tiền 172 triệu đồng.


Tháng 10-2015, Viện Kiểm sát nhân dân TP. Nha Trang truy tố các bị cáo (BC) Nguyễn Thị Huyền C., Nguyễn Thị Thanh Đ. và Trần Thị Thanh Ch. tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, về hành vi chiếm đoạt 172 triệu đồng của Ngân hàng Nam Á.


Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân (TAND) TP. Nha Trang đã xử phạt C. 4 năm tù, bị cáo Đ. 4 năm tù, Ch. 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật Hình sự.


Sau đó, C. và Đ. kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các BC khai nhận do không hiểu biết pháp luật, suy nghĩ nông cạn, nghĩ cứ làm giả CMND để vay được tiền rồi sau đó sẽ làm ăn trả nợ sau nên mới phạm tội. Các BC xin giảm hình phạt và cho được hưởng án treo vì bệnh tật, hoàn cảnh gia đình khó khăn.


Viện Kiểm sát: Chưa đủ căn cứ buộc tội?


Vừa qua, TAND tỉnh đã tiến hành xử phúc thẩm vụ án này. Khác với quan điểm luận tội của cấp sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát tỉnh đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, với lý do: tuy các BC có hành vi gian dối, nhưng chưa thể hiện rõ ý thức chiếm đoạt tài sản, không có ý thức chiếm đoạt tài sản từ trước. Thực tế, sau khi vay tiền của ngân hàng, các BC đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng (đã vay tiền để trả khoản vay thứ nhất cho ngân hàng) nên chưa đủ căn cứ xét xử các BC về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Cạnh đó, hành vi của một số cán bộ công an có liên quan trong việc làm CMND giả cho Nguyễn Văn A. và Trần Thị Thanh Ch. cũng chưa được điều tra làm rõ.


HĐXX phúc thẩm không chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát, vì không có căn cứ cho rằng việc điều tra ở cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ để yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. HĐXX phân tích, bằng thủ đoạn gian dối nói trên, các BC đã đánh lừa được các nhân viên tín dụng của ngân hàng để chiếm đoạt số tiền vay 200 triệu đồng. Như vậy, trước khi xác lập hợp đồng tín dụng vay vốn, các BC đều biết rõ mình không có khả năng trả nợ, vì thực tế khi đến thời hạn trả nợ gốc theo hợp đồng tín dụng, các BC đã mất khả năng thanh toán, phải vay nóng bên ngoài để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy không có phương án trả nợ cho ngân hàng, nhưng các BC vẫn tiếp tục dùng thủ đoạn gian dối để vay tiền, thể hiện ý thức chiếm đoạt tài sản đối với khoản tiền vay 200 triệu đồng của Ngân hàng Nam Á nên tội phạm đã hoàn thành kể từ khi các BC nhận được số tiền này.


Chấp nhận một phần kháng cáo


HĐXX kết luận: Hành vi của các BC đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nên tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật. Việc xem xét trách nhiệm của những cán bộ công an trong việc làm CMND cho Nguyễn Văn A. và Trần Thị Thanh Ch. mang tên Nguyễn Văn H. và Hoàng Thị Ngọc P. đã được cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung và cơ quan điều tra kết luận “đang tiến hành xác minh điều tra làm rõ trách nhiệm, sẽ kết luận xử lý sau”. Kết quả xử lý đối với những cán bộ công an không ảnh hưởng đến việc xem xét trách nhiệm hình sự của các BC. Sau khi vụ án bị phát hiện và bị khởi tố, các BC đã cùng với gia đình tích cực khắc phục hậu quả, hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt. Bản thân các BC là dân lao động, suy nghĩ nông cạn, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của các BC.


Tuy BC Ch. không kháng cáo, nhưng xét thấy BC Ch. có vai trò là đồng phạm giúp sức cho hai BC C. và Đ., không được hưởng lợi gì từ số tiền đã chiếm đoạt nên tính chất, mức độ hành vi phạm tội hạn chế hơn hai BC kia, tòa cho hưởng án treo để BC thấy được sự công bằng của pháp luật. HĐXX đã tuyên xử sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo C. 3 năm tù; BC Đ. 3 năm tù; BC Ch. 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo.


ĐẠI HƯNG